Chính sách của Trung Quốc với Việt Nam và Biển Đông
>> November 28, 2008
Trong những ngày gần đây, dư luận trong và ngoài nước đặc biệt quan tâm đến vụ việc ngư dân Việt Nam đánh cá trong phần lãnh hải của Việt Nam ở Vịnh Bắc Bộ bị lực lượng biên phòng biển Trung Quốc tấn công và giết hại. Sự kiện này xảy ra đúng vào lúc hai nước Việt Nam và Trung Quốc kỷ niệm 55 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao. Bài viết này nhằm mục đích bước đầu phân tích chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam trong những năm gần đây và những tính toán của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông.
Chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam: mục tiêu khu vực nằm trong chính sách toàn cầu.
Mục tiêu xuyên suốt của Trung Quốc trong hơn năm thập kỷ qua là vươn lên trở thành một cường quốc hàng đầu trên thế giới có địa vị bình đẳng với Hoa Kỳ và các cường quốc khác. Để thực hiện mục tiêu đó, đã nhiều lần Trung Quốc tiến hành thay đổi liên minh, đảo ngược bạn thù nhưng không phải mọi tính toán của Trung Quốc đềuthành công do “lực bất tòng tâm”. Tuy nhiên, bước sang thập kỷ cuối của thế kỷ 20 và những năm đầu thế kỷ 21, cùng với những thành tựu đạt được sau hơn 20 năm thực hiện cải cách kinh tế và sự chuyển biến thuận lợi của tình hình quốc tế, Trung Quốc đã từng bước thu hẹp khoảng cách kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật so với Hoa Kỳ và các nước công nghiệp phát triển phương Tây.
Cùng với sự tăng nhanh của tiềm lực kinh tế và quốc phòng, vai trò quốc tế và tư thế đối ngoại của Trung Quốc trên thế giới tiếp tục được củng cố, Hoa Kỳ và các nước lớn ngày càng phải coi trọng vai trò của Trung Quốc trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế. Trong báo cáo nghiên cứu China in the near term công bố tháng 2 năm 1995, các nhà chiến lược Hoa Kỳ đă kết luận “dù Trung Quốc có rơi vào kịch bản nào thì Hoa Kỳ cũng sẽ gặp phải một Trung Quốc mà chưa bao giờ nó từng gặp”. Trung Quốc càng mạnh, tham vọng của Trung Quốc ngày càng lớn, và do vậy, “Trung Quốc cường quốc” là nhân tố ổn định hoặc bất ổn định luôn là một trong những chủ đề thời sự của giới nghiên cứu chính trị quốc tế và hoạch định chính sách đối ngoa.i.
Để thực hiện chiến lược trở thành cường quốc thế giới bình đẳng với Hoa Kỳ và các cường quốc khác, gần đây giới lãnh đạo Trung Quốc đã đưa ra thuyết “trỗi dậy hoà bình” [2] nhằm biện minh cho các động thái tăng cường tiềm lực cũng như tiếng nói của Trung Quốc trong các vấn đề quốc tế và làm nền tảng lý luận cho hành động đối ngoại của Trung Quốc trong thời gian tới. Dù được minh họa bởi thuyết "trỗi dậy hoà bình", chiến lược đối ngoại của Trung Quốc có thể được phân tích ở ba cấp độ:
Ở cấp độ khu vực, Trung Quốc tập trung ổn định các vùng biên giới cần kề, tăng cường ảnh hưởng lên các nước láng giềng, khẳng định tư cách cường quốc khu vực và ảnh hưởng của Trung Quốc ở Đông Á thông qua việc thúc đẩy quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau với các nước láng giềng [3] , chủ động đi đầu lãnh đạo các sáng kiến hợp tập hợp lực lượng và hợp tác kinh tế trong khu vực [4] .
Ở cấp độ toàn cầu, phấn đấu trở thành cường quốc kinh tế - chính trị thế giới, tham gia tích cực vào các diễn đàn đa phương, sử dụng các diễn đàn này như là công cụ cho chính sách đối ngoại của Trung Quốc nhằm mục tiêu được cộng nhận như là cường quốc có tiếng nói quan trọng trong các vấn đề quan hệ quốc tế.
Phấn đấu trở thành nhân tố không thể bỏ qua trong một số vấn đề quan hệ quốc tế quan trọng có liên quan trực tiếp đến lợi ích của Trung Quốc cũng như an ninh và ḥa b́nh của thế giới. Xây dựng h́nh ảnh một cường quốc Trung Quốc có trách nhiệm.
Đối với các nước khu vực và đặc biệt là Việt Nam, Trung Quốc sẽ tiếp tục “chính sách hai mặt” mà trọng tâm là củng cố và mở rộng vị trí của Trung Quốc với tư cách là “cường quốc khu vực” [5] .
Chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam: “gần không thân, xa không lạnh”
Trước hết cần phải khẳng định Việt Nam không phải là trọng tâm chiến lược của Trung Quốc. Nhưng Việt Nam luôn chiếm vị trí quan trọng trong chính sách khu vực cũng như toàn cầu của Trung Quốc.
Ở cấp độ khu vực, Việt Nam là nước láng giềng có đường biên giới chung trên bộ và trên biển với Trung Quốc. Giữa Trung Quốc và Việt Nam tồn tại nhiều vấn đề mang tính lịch sử và cả những vấn đề mởi nảy sinh như tranh chấp biên giới lănh thổ trên bộ, trong vịnh Bắc Bộ, các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vấn đề người Việt gốc Hoa sinh sống ở Trung Quốc, vấn đề biên mậu… Việt Nam lại án ngữ con đường “tiến xuống phía Nam” [6] của Trung Quốc. Trong lịch sử, Việt Nam là nước duy nhất trong số các nước Đông Nam Á đă từng có xung đột vũ trang trực tiếp với Trung Quốc, lịch sử và văn hóa dân tộc Việt Nam được h́nh thành và xây dựng chủ yếu xung quanh chủ đề chống xâm lược phương Bắc và chính sách Hán hóa của các triều đại phong kiến Trung Hoa…
Chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam gắn liền với các yêu cầu chiến lược của Trung Quốc ở trong nước, khu vực và thế giới. Lợi ích của Trung Quốc là có một Việt Nam “độc lập” với các cường quốc khác nhưng “không đủ mạnh và độc lập với Trung Quốc”. Việt Nam không được đi theo một cường quốc bất kỳ chống lại Trung Quốc và lợi ích của Trung Quốc. Đồng thời, khi tình hình đòi hỏi và cho phép, Trung Quốc sẵn sang sử dụng Việt Nam như con bài mặc cả phục vụ cho chính sách khu vực và toàn cầu của Trung Quốc.
Những năm 1950, Trung Quốc lợi dụng việc chấm dứt chiến tranh Đông Dương để dàn xếp với Pháp một giải pháp có lợi cho Trung Quốc, chia cắt Việt Nam thành hai miền với miền Bắc là khu đệm an ninh cho Trung Quốc ở phía Nam. Trong những năm 1960 và 1970, Trung Quốc sử dụng chiến tranh Việt Nam như lá bài mặc cả với Hoa Kỳ và vào cuối cuộc chiến tranh, Trung Quốc đã lợi dụng tình hình đưa quân xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa khi đó nằm dưới sự kiểm soát của chính quyền Nam Việt Nam. Sau năm 1975, Trung Quốc sử dụng chiêu bài chống Việt Nam ở Đông Nam Á gắn liền với chính sách chống Liên Xô, phá thế ḥa hoăn Liên Xô – Hoa Kỳ nhằm thu hút viện trợ cũng như sự ủng hộ của Hoa Kỳ và các nước Phương Tây. Trong thời gian từ 1979 đến 1990, Trung Quốc sử dụng vấn đề Campuchia nhằm cô lập Việt Nam, tập hợp các nước ASEAN ủng hộ Trung Quốc, làm tăng thêm hiềm khích giữa Việt Nam và các nước ASEAN. Cuối những năm 1980, Trung Quốc cùng Việt Nam đi vào bình thường hóa quan hệ nhằm thúc đẩy giải quyết vấn đề Campuchia, sử dụng giải pháp cho vấn đề Campuchia nhằm thoát ra khỏi lệnh cấm vận của phương Tây đối với Trung Quốc sau sự kiện Thiên An Môn tháng 6/1989, đồng thời qua việc giải quyết vấn đề Campuchia tạo dựng bộ mặt mới cho Trung Quốc, với tư cách thành viên thường trực Hội đồng Bảo an LHQ, sau những dính líu trong suốt hai thập kỷ với lực lượng Khmer Đỏ và chế độ diệt chủng Pônpốt ở Campuchia. Việc Trung Quốc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam năm 1991 cũng nhằm đưa Trung Quốc từng bước thoát khỏi cấm vận của phương Tây, triển khai chiến lược “Nam tiến” mới nhằm vào khu vực Đông Nam Á và Biển Đông trong bối cảnh các nước lớn Hoa Kỳ và Nga giảm dần sự hiện diện trong khu vực và để lại một “khoảng trống quyền lực”.
Để thực hiện mục tiêu không thay đổi với Việt Nam như trình bày ở trên, trong suốt hơn 50 năm qua, Trung Quốc đă thực hiện chính sách hai mặt, trong từng thời gian và tùy theo lợi ích khác nhau, khi tranh thủ, khi kiềm chế, khi hữu nghị, khi thù địch. Các biện pháp cụ thể của Trung Quốc gồm:
Khi Trung Quốc cần có sự ủng hộ của Việt Nam, muốn tăng cường quan hệ với Việt Nam thì tăng cường viện trợ, thậm chí với số lượng lớn [7] . Nhưng khi quan hệ không được như mong muốn, Trung Quốc sẵn sàng tạo sức ép bằng các thủ đoạn khác nhau và thậm chí tiến hành “trừng phạt” (cắt viện trợ, gây xung đột, dùng vũ lực lấn chiếm lănh thổ).
Dùng Việt Nam để dàn xếp với Hoa Kỳ, phương Tây và Liên Xô, phục vụ lợi ích nước lớn của Trung Quốc. Điển h́nh là các vụ việc đàm phán và kư kết Hiệp định Giơnevơ 1954, vụ Trung Quốc đón R. Nixon và ra Tuyên bố Thượng Hải, vụ đặt điều kiện b́nh thường hóa quan hệ với Liên Xô trong những năm 1980…
Khi Việt Nam có chiến tranh, Trung Quốc tìm cách biến miền Bắc Việt Nam thành “khu đệm an ninh” cho Trung Quốc, trong thời bình thì coi Việt Nam là thị trường cho hàng hóa Trung Quốc, chủ trương thuyết “biên giới mềm” [8] nhằm tăng cường ảnh hưởng về các mặt văn hóa, kinh tế lên xã hội Việt Nam.
Sử dụng chiêu bài chống Việt Nam lập “Liên bang Đông Dương” để chia rẽ Viêt Nam với Lào và Campuchia nhằm gây bất ổn cho Việt Nam ở phía Tây và Tây Nam, chia rẽ và gây ngờ vực giữa Việt Nam và các nước trong khu vực.
Dùng mọi thủ đoạn lấn chiếm lãnh thổ để gây sức ép và tạo “việc đã rồi” làm cơ sở đàm phán phân định lại biên giới lănh thổ. Các vụ Hoàng Sa năm 1974, Trường Sa năm 1988 và 1992 và mới đây là sự kiện đưa dàn khoan vào thềm lục địa Việt Nam và gây ra “sự kiện Vịnh Bắc Bộ 2005” là những ví dụ.
Sử dụng vấn đề người Hoa ở Việt Nam để gây sức ép đối với Việt Nam. Trong những năm gần đây, vấn đề này biểu hiện ở hai hồ sơ: mở Tổng lãnh sự Trung Quốc tại một số địa phương, ép Việt Nam nhận lại số người Hoa đă chạy sang Trung Quốc trong những năm 1970 [9] .
Can thiệp sâu vào chính trị nội bộ Việt Nam nhằm chia rẽ và gây sức ép đối với giới hoạch định chính sách [10] . Sử dụng các thỏa thuận cấp cao (“16 chữ vàng”, nguyên tắc “bốn tốt”) để ép Việt Nam trong đàm phán biên giới lănh thổ, trong tuyên truyền, giáo dục, văn hóa, xuất bản, báo chí… Chủ động gây ra các vụ việc căng thẳng đúng vào các dịp có đoàn thăm viếng cấp cao hoặc kỷ niệm quan trọng nhằm hạn chế phản ứng của Việt Nam và phân hóa nội bộ Việt Nam.
Trên thực tế, kể từ khi bình thường hóa quan hệ đến nay, quan hệ Việt Nam – Trung Quốc có thể được khái quát trong sáu chữ “gần không thân, xa không lạnh” hay như lời Giang Trạch Dân nói: “đồng chí không đồng minh”.
Vào thời điểm hiện nay, khi mà các vấn đề tranh chấp biên giới lănh thổ trên bộ và trong vịnh Bắc Bộ đã được giải quyết về mặt nguyên tắc, thì vấn đề Biển Đông đang và sẽ là hồ sơ khó khăn nhất trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Chính sách của Trung Quốc đối với tranh chấp Biển Đông: gặm nhấm và chia rẽ để giành phần lợi nhất có thể
Biển Đông có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, có ý nghĩa chiến lược quan trọng về giao thông hàng hải, về vị trí chiến lược và giàu tài nguyên, nhất là về dầu khí. Ngày nay biển Đông càng trở nên quan trọng hơn do Châu Á – Thái Bình Dương có khả năng trở thành trung tâm kinh tế thương mại của thế kỷ 21 đang thu hút sự chú ý ngày càng lớn của tất cả các nước và khu vực khác trên thế giới.
Độc chiếm biển Đông là mục tiêu lâu dài và xuyên suốt trong chiến lược của Trung Quốc ở Đông Nam Á. Để thực hiện tham vọng và mục tiêu trên, Trung Quốc đã áp dụng các biện pháp chiến lược, sách lược có tính hai mặt rất khôn khéo và tinh vi và được tính toán hết sức kỹ lưỡng.
Một mặt, Trung Quốc luôn luôn khẳng định chủ quyền đối với toàn bộ khu vực biển Đông nằm trong vùng lưới mà họ thể hiện trên bản đồ. Trung Quốc ráo riết tăng cường thực hiện việc tăng chi phí quốc phòng. Đi đôi với việc tăng ngân sách quân sự mà chủ yếu là tăng cường lực lượng không quân và hải quân, khả năng hoạt xa cơ sở của hai lực lượng này, Trung Quốc sớm xác định chiến lược biển và từng bước tiến hành các biện pháp lấn chiến trên thực địa. Trung Quốc không bỏ lỡ thời cơ khi có điều kiện thực hiện việc lấn chiếm bằng nhiều cách kể cả dùng biện pháp quân sự như chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974 vào lúc Việt Nam đang tập trung vào sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, chiếm 6 băi thuộc quần đảo Trường Sa năm 1988 vào lúc vấn đề Campuchia đang đi vào giải quyết, Việt Nam gặp nhiều khó khăn về kinh tế, lực lượng quốc pḥng c̣n yếu không có khả năng đối phó, các nước ASEAN lo ngại Trung Quốc bành trướng song lực lượng quốc pḥng nhất là hải quân c̣n yếu kém so với Trung Quốc. Năm 1992, sau khi thông qua luật lănh hải và các vùng biển phụ cận, Trung Quốc lấn vào vùng TW chính của Việt Nam vào lúc quan hệ hai nước đã được bình thường hóa, vào tháng 2/1995, Trung Quốc xây dựng căn cứ ở bãi Vành Khăn, là khu vực cả Việt Nam, Philippin đều tuyên bố chủ quyền. Trung Quốc tiến hành việc này khi nội bộ đang có vấn đề, sức khỏe Đảng xấu đi đặt ra vấn đề tranh chấp quyền lực giữa các phe phái, trong đó phái quân sự và số chủ trương làm mạnh ở biển Đông đang tăng cường hoạt động. Ở khu vực, Việt Nam chuẩn bị gia nhập ASEAN và quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ đi vào bình thường hóa sau việc Tổng thống Hoa Kỳ tuyên bố dỡ bỏ lệnh cấm vận kinh tế đối với Việt Nam…
Mặt khác việc Trung Quốc lấn chiếm biển Đông đã gây ra sự lo ngại và chống đối của các nước trong khu vực. Để xoa dịu những phản ứng của các nước trong khu vực, Trung Quốc ra sức phản bác lại thuyết về “mối đe dọa Trung Quốc” và thanh minh rằng Trung Quốc không có ý định “lấp khoảng trống quyền lực” tại khu vực [11] , rằng việc Trung Quốc tăng chi phí cho lĩnh vực quốc pḥng chỉ nhằm tăng cường khả năng pḥng thủ đất nước. Một số học giả Trung Quốc thậm chí còn than phiền rằng Trung Quốc đang ở trong t́nh trạng “các nước nhỏ gặm nhấm nước lớn chứ không phải nước lớn nuốt nước bé”. Ủng hộ lập trường của chính phủ Trung Quốc trong việc xác định chủ quyền ở biển Đông, giới học giả Trung Quốc ra sức biện bạch rằng những đòi hỏi của Trung Quốc ở biển Đông là “có cơ sở pháp lý”, v́ đó là “vùng nước lịch sử” của Trung Quốc và do đó “Trung Quốc có quyền sở hữu lịch sử”…
Song song với việc làm trên, Trung Quốc tìm cách phân hóa Việt Nam với các nước ASEAN và giữa các nước ASEAN khác với nhau nhằm phá thế “quần lang đả hổ” đồng thời tìm cách trung lập hóa Hoa Kỳ và các nước lớn khác có lợi ích ở khu vực như Nga, Nhật… Để đạt được mục đích đó, Trung Quốc sử dụng vấn đề biển Đông làm con bài mặc cả với Hoa Kỳ, Trung Quốc từng bước lấn chiếm biển Đông nhưng tránh không gây ra xung đột lớn ảnh hưởng tới lợi ích của Hoa Kỳ, mặt khác Trung Quốc trực tiếp ký hợp đồng với công ty Crestone của Hoa Kỳ thăm dọ̀ và khai thác dầu khí ở khu vực Tư Chính của Việt Nam. Trung Quốc còn đảm bảo sẽ sử dụng lực lượng hải quân để bảo vệ lợi ích của công ty Crestone.
Đối với các nước ASEAN, Trung Quốc một mặt vẫn khẳng định chủ quyền đối với toàn bộ vùng biển Đông bao gồm cả các đảo mà Philippin và Malaixia tuyên bố có chủ quyền và đang chiếm giữ. Hành động của hải quân Trung Quốc tại khu vực đảo Vành Khăn là một bằng chứng. Song mặt khác Trung Quốc hết sức thận trọng, từ 1991-1994, Trung Quốc chỉ tập trung gây căng thẳng và lấn vào khu vực Việt Nam đang chiếm giữ hoặc nằm trong thềm lục địa của Việt Nam. Để xoa dịu ASEAN và phân hóa các nước có liên quan, trung lập phản ứng quốc tế, Trung Quốc đưa ra chủ trương “chủ quyền tại ngã”, “gác tranh chấp cùng khai thác”. Thực chất ý định của Trung Quốc là buộc các nước thừa nhận “chủ quyền của Trung Quốc” và chấp nhận “gác tranh chấp” để “cùng khai thác” những khu vực đang thuộc quyền kiểm soát của các nước khác. Đồng thời Trung Quốc nhấn mạnh chỉ đàm phán tay đôi, “giải quyết từng nước với nhau, từng vùng nước cụ thể”, phản đối “giải quyết cả gói” hoặc đa phương. Trung Quốc cũng kiên quyết chống lại việc “quốc tế hóa” vấn đề biển Đông.
Ngoài ra, lợi dụng việc Đài Loan đang chiếm giữ đảo “Thái Bình”, đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa, Trung Quốc c̣n kích động tinh thần “con cháu Viêm Hoàng” ra sức lôi kéo Đài Loan phối hợp lập trường với Trung Quốc trong việc đ̣i hỏi chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa và khai thác tài nguyên biển trong khu vực có tranh chấp, làm căng thẳng thêm t́nh h́nh và gây sức ép đối với các nước có liên quan, nhất là Việt Nam.
Tóm lại, ý đồ chiến lược của Trung Quốc ở khu vực và biển Đông là nhất quán, không thay đổi, nhưng bước đi của họ từng lúc phụ thuộc một phần rất quan trọng vào tình hình nội bộ và thái độ của các bên liên quan trong khu vực cũng như phản ứng quốc tế, cho dù đã tham gia ký kết Tuyên bố về ứng xử ở biển Đông (biển Nam Trung Hoa). [12]
Sống cạnh một láng giềng Trung Quốc như vậy Việt Nam phải lựa chọn hành động như thế nào? Để kết luận xin được dẫn một đoạn trích trong bài phát biểu của Carlyle A. Thayer tại Hội thảo quốc tế China Threat Perception from Different Countries tổ chức tại Hồng Kông năm 2001:
“There are three possible ways of organizing (our) relations with China: (1) confrontation, (2) satellite status similar to North Korea or (3) a median position between the two. Satellite status provides no guarantees. North Korea was sacrificed by China when it turned to South Korea...”
Đối đầu chắc khó có thể là là giải pháp cho tương lai. Một lựa chọn “trung đạo” có lẽ sẽ là một lựa chọn tốt. Nhưng cũng cần phải nhắc lại rằng “trung đạo” cũng có nhiều đường khác nhau.
Để t́m hiểu thêm về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, xin đọc:
Ramses Amer, “Assessing Sino-Vietnamese Relations through the Management of Contentious Issues”, Contemporary Southeast Asia, Institute of Southeast Asian Studies (ISEAS), Singapore, Vol. 26 No. 2 August 2004, pp.320-345.
Vũ Hồng Lâm, “Lịch sử quan hệ Việt – Trung nh́n từ góc độ đại chiến lược”, Thời đại mới, Số 2 - tháng 7/2004, http://thoidai.org/200402_VHLam.htm
________________________________________
[1]Tôi thêm chữ L. có nghĩa Lại, Lại (là) Đông A.
[2]Khái niệm «trỗi dậy ḥa b́nh» được các học giả Trung Quốc thân Hồ Cẩm Đào đưa ra lần đầu tiên năm 2003. Trong dịp thăm Hoa Kỳ cuối năm 2003, Hồ đă chính thức sử dụng khái niệm này. Ngay sau đó đă diễn ra một cuộc tranh luận gay gắt giữa hai phe thân Giang Trạch Dân và thân Hồ Cẩm Đào trong giới hoạch định chính sách và giới nghiên cứu. Đến tháng 4 năm 2004, phe Giang gần như chiếm ưu thế khi khái niệm này được ít dùng trên báo chí chính thức. Nhưng ngay sau khi Hồ thay Giang đảm nhận chức chủ tịch Quân ủy Trung ương, khái niệm «trỗi dậy ḥa b́nh» lại được lặp lại nhiều lần trong các diễn văn chính thức. Theo giới nghiên cứu, thuyết «trỗi dậy ḥa b́nh» được đưa ra đánh dấu kỷ nguyên Hồ Cẩm Đào. Đồng thời, thuyết này cũng nhằm phản bác lại các lập điệu về «mối đe dọa Trung Quốc» được các học giả Nhật Bản và Hoa Kỳ đưa ra vào thập kỷ 1990.
[3]«Láng giềng đối tác», «láng giềng an ninh»… là những khái niệm mới đây Ngoại trưởng Trung Quốc Lư Triệu Tinh đă sử dụng trong các bài trả lời phỏng vấn của Nhân Dân nhật báo và Thanh Niên nhân dịp kết thúc năm 2004.
[4]Idem.
[5]Khái niệm “cường quốc khu vực” nhằm đối lập với khái niệm “cường quốc bên ngoài” chỉ các nước như Hoa Kỳ, Nga hay EU.
[6]Khẩu hiệu định hướng cho an ninh và đối ngoại của Trung Quốc trong thời gian gần đây là «ổn định phía Bắc, cảnh giác phía Đông, tiến xuống phía Nam».
[7]Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, Đặng Tiểu B́nh từng khuyên Việt Nam từ chối nhận viện trợ của Liên Xô. Trung Quốc sẽ “bao” toàn bộ số viện trợ đó.
[8]Trong những năm 1990, giới học giả Trung Quốc đưa ra khái niệm “biên giới mềm”, theo đó “không gian sinh tồn” của Trung Quốc được mở rộng theo một đường “biên giới mềm” gắn Trung Quốc với các nước, vùng lănh thổ lân cận nơi có lợi ích chính trị, an ninh, kinh tế, văn hóa… của Trung Quốc.
[9]Theo số liệu của các chuyên gia quốc tế, con số người Hoa mà Trung Quốc muốn Việt Nam nhận lại vào khoảng 27-28 ngh́n người. Xem bài của Ramses Amer, “Assessing Sino-Vietnamese Relations through the Management of Contentious Issues”, Contemporary Southeast Asia, Institute of Southeast Asian Studies (ISEAS), Singapore, Vol. 26 No. 2 August 2004, pp.320-345.
[10]Xem Trần Quang Cơ, Hồi ức và Suy ngẫm, Hồi kư, 2003, không xuất bản.
[11]Tuyên bố của Lư Bằng tại Hà Nội tháng 12/1992.
[12]Tháng 11/2002.
http://nhungpham.blogspot.com/2005/01/chnh-sch-ca-trung-quc-vi-vit-nam-v-bin.html