GHI LẠI THIÊN HÙNG CA CỦA TỈNH/TIỂU KHU BÌNH THUẬN TRONG NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG THÁNG TƯ MẤT NƯỚC 1975

>> April 16, 2009


MƯỜNG GIANG
Ngày 19-4-1975 Phan Thiết mất vào tay đế quốc Cộng Sản Quốc Tế. Tháng Tư Đen 2009 lại về sau ba mươi bốn năm huyết hận, giữa chốn quê người, tôi người lính già tàn phế, sau cuộc chiến chỉ còn trái tim cô đơn khô máu, mang một thân phận tủi buồn của kiếp lính quèn nhưng vẫn hiên ngang ngẩng mặt, vẫn đầy đủ tư cách của người lính Việt Nam Cộng Hòa, quỳ đây giữa trời đất mông mênh, cùng với sóng biển, đá núi và những cánh chim bạt ngàn, những sinh vật vô tình nhưng mang trái tim nhân thế, để dâng lên hương linh các anh hùng liệt nữ, trong đó có Những Người Con Thân Yêu Của Phan Thiết, Bình Thuận, vì đời, vì người, vì đại nghĩa dân tộc, nên đã VỊ QUỐC VONG THÂN. Đó là lòng tri ân thành kính mà chúng ta hôm nay, ngày mai và mãi mãi sẽ không bao giờ quên được.

Cảm động biết bao những người lính còn sống sót của Bình Thuận sau ngày 19-4-1975, trong đó có cánh chim đầu đàn là Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa và những tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng và quân nhân các cấp, có mặt tại Phan Thiết vào những giờ phút cuối cùng đã ghi lại “Thiên Hùng Ca Phan Thiết” vào những ngày cuối tháng 4-1975.

“Tháng Tư năm đó ta còn nhớ
Phan Thiết chìm trong lửa bạo tàn
Mười Chín giặc về gây khổ hận
Đạn tăng nghiền nát vạn con tim

Tháng Tư hè tới ve rền hát
Hoa vẫn vô tư nhuộm đất trời
Xác phượng nằm bên thây lính trận
Máu đào hòa lẫn cánh hoa tươi

Tháng Tư mất nước ai quên được?
Đồng đội năm nao xác ngập đường
Nơi bến, trên tàu trong xóm nhỏ
Những ngày tù ngục sống thê lương

Tháng Ba giặc chiếm Ban Mê Thuột
Phan Thiết tháng Tư xác ngập đường
Cả nước tháng Năm thành địa ngục
Giờ đây sông núi vẫn đau thương. . .”

NHỮNG NGÀY TỬ CHIẾN CUỐI CÙNG TẠI PHAN THIẾT

Ngày 2-4-1975, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II lần lượt tan hàng tại Pleiku và Nha Trang, và cuối cùng bị xóa tên vào lúc 1giờ 45 trưa cùng ngày qua quyết định của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, sáp nhập phần lãnh thổ còn lại vào Quân Đoàn III. Theo Thiếu Tá Phạm Huấn, tác giả “Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975” cũng như tài liệu của Đốc Sự Phạm Ngọc Cửu, phó tỉnh trưởng Bình Thuận, cả hai đều là nhân chứng xác nhận Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II, đã tiếp nhận mệnh lệnh trên, tại Bộ Chỉ Huy Hành Quân của Tiểu Khu Bình Thuận đóng trên Lầu Ông Hoàng, từ tay Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư Lệnh Phó QĐIII. Sau đó ông đã quyên sinh bằng độc dược vào ngày 1-5-1975 khi Việt Cộng cưỡng chiếm được Miền Nam, như các Vị Tướng Lãnh Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai… lưu danh thiên cổ, tuy chết nhưng vẫn sống muôn đời trong lòng Dân Tộc Việt.

Tiểu Đoàn 229 Địa Phương Quân (ĐPQ) của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Tiến, lúc đó đang công tác tại Khu Định Cư Nghĩa Thuận, nằm bên kia Đập Đồng Mới, thuộc xã Lương Sơn, thì có lệnh rút về tăng phái cho Nam Bình Thuận vào những ngày đầu tháng 4-1975. Đại Đội 4/229 do Trung Úy Cao Hoài Sơn làm Đại Đội Trưởng, phụ trách bảo vệ Nông Trường Sao Đỏ tại Bình Tú, thế cho ĐĐ290ĐP của Đại Úy Sâm đã di chuyển tới Lầu Ông Hoàng bảo vệ cho BỘ Chỉ Huy Hành Quân Nhẹ của Tiểu Khu BT. Ngày 3-4-1975 tất cả Tiểu Đoàn 229/ĐP được lệnh rút về bảo về Tiểu Khu và Tòa Hành Chánh Tỉnh: ĐĐ2/229 phòng thủ Tiểu Khu, ĐD4/229 trách nhiệm khu vực có chu vi là đường Nguyễn Hoàng, vườn hoa bao quanh mặt sau Tiểu Khu. ĐĐ3 và 1/229 phòng thủ vi trí còn lại quanh Thị Xã Phan Thiết.

Một đêm trôi qua và cuối cùng Đoàn Di Tản cũng đã vào lãnh thổ Bình Thuận. Các Quận Lỵ Tuy Phong, Hải Ninh nhờ không nằm trên Quốc Lộ 1 nên ít bị thiệt hại vật chất. Ngược lại Quận Hòa Đa bị tàn phá nặng nề, từ Phan Rí Cửa, Phan Rí Thành, Chợ Lầu vào tới Lương Sơn nằm dưới chân núi Tà Dôn. Tiệm ăn, quán giải khát, cửa hàng tạp hóa đều bị cướp sạch.

Tại Phan Thiết sáng ngày 4-4-1975, hầu như mọi con đường trong thành phố đều tràn ngập các loại xe cộ của Đoàn Di Tản chẳng khác gì một con quái vật khổng lồ, dài mấy cây số. Hỡi ôi công trình ba trăm năm đánh đổi bằng máu xương huyết lệ của không biết bao nhiêu thế hệ, chỉ có một đêm ngắn ngủi, đã bị đốt cháy ngôi chợ lớn, nhiều cây xăng, đập phá phố xá thương mại và nhà cửa của dân lành. Nhưng nhức nhối hơn hết, vẫn là cảnh đàn bà, con gái bị hãm hiếp... ngay trước đám đông, mà không ai dám ngăn cản hay can thiệp, vì Tỉnh đã bỏ ngỏ nên không tìm đâu được bóng dáng của chính quyền.

Theo lời kể của Trung Úy Sơn, ĐĐT/ĐĐ4/229, “Vào tối ngày 4-4-1975, trong lúc tinh thần đang căng thẳng, bỗng nghe một tiếng nổ rất lớn, tiếp theo là chợ Phan Thiết được xây từ năm 1899 bị bốc cháy dữ dội. Lập tức tôi dùng máy PRC25 gọi báo về BCH/TĐ và Tiểu Khu, đồng thời xin phép cho đại đội tôi tới chợ chữa cháy. Lúc đó vào khoảng 10 giờ đêm nhưng mãi tới 12 giờ khuya mới được chấp thuận, đồng thời có lệnh ‘bắn bỏ tất cả những ai chống cự hay thừa dịp hỏa hoạn cướp giựt’... Bấy giớ đám tàn quân thấy có đơn vị địa phương tới đường Gia Long, nên tự động rút đi nơi khác, tránh được đổ máu, một điều mà tất cả quân dân Bình Thuận không ai muốn. Theo lời tường thuật của đồng bào, nguyên nhân vụ hỏa hoạn là do một tàn quân dùng súng M72 bắn vào cửa sắt của tiệm giầy Ba Ta, nằm trong phạm vi chợ, trên đường Ngô Sĩ Liên. Lửa từ đó cháy lan khắp chợ nhưng không ai dám ra chữa cháy, vì lúc đó đám tàn quân đang bắn phá cướp giựt loạn xà ngầu.

Thấy có quân đội tới, đồng bào ở các khu phố Gia Long, Ngô Sĩ Liên, Lý Thường Kiệt, Minh Mạng.. mới túa ra khỏi nhà, xông vào chợ để khuân vác những đồ đạc còn lại. Phần đại đội tôi vừa lo chữa lửa, vừa phụ giúp chuyển vận hàng hóa từ chợ ra chất đầy truớc Rạp Chiếu Bóng Ngọc Thúy. Đồng lúc có hai xe chữa lửa của Trung Tâm Yểm Trợ Tiếp Vận, do Thiếu Tá Phạm Minh chỉ huy, tới chữa cháy cho hai dãy phố Ngô Sĩ Liên và Gia Long, vì chợ lúc đó đã thành đống tro tàn. Thảm nhất là cả hai xe cứu hỏa, đều không có nhân viên chữa lửa mà chỉ có tài xế, nên Thiếu Tá Phạm Minh và tôi, phải đích thân cầm vòi rồng xịt nước dập lửa.

Công tác kéo dài gần tới sáng mới dập tắt hết lửa. Đồng bào đường Gia Long đã hết lòng cảm ơn, tự nguyện quyên góp được 120.000 đồng, để ủy lạo anh em binh sĩ và tài xế xe chữa lửa, vì đã hết lòng giúp đỡ mọi người trong cơn họan nạn, nhất là Thiếu Tá Phạm Minh. Trời mới sáng, chưa kịp nghỉ ngơi, thì Việt Cộng pháo kích vào Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu nhưng lại rớt ra ngoài, quanh vườn hoa, bờ sông và ngân hàng Việt Nam Thương Tín. Có hai trái rớt vào khu đông dân ở Khu 1 + 2 Bình Hưng, khiến cho nhiều người thương vong. Tôi được lệnh trèo lên sân thượng của ngân hàng Việt Nam Thương Tín để quan sát hướng đạn, sau đó gọi Pháo Binh tại Lầu Ông Hoàng phản pháo, nhờ đó mới dập tắt được pháo kích.

Khoảng 10 giờ sáng, lúc Việt Cộng đang pháo kích, bỗng có một bọn du đãng, nhặt ở đâu được một xe “Jeep” quân đội bỏ lại, cắm cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tay cầm súng AK47, mang băng đỏ, lái xe chạy băng qua cầu giữa (Nguyễn Hoàng), tới trước rạp chiếu bóng Bình Thuận và khách sạn Anh Đào, thì đụng độ với ĐĐ1/229ĐP của Trung Úy Nguyễn Văn Thư, nên chúng đã bị bắn chết ngay trên xe.

Buổi trưa, có thêm hai hỏa tiễn 130 ly, từ hướng Xuân Phong, Trinh Tường, pháo vào trung tâm Phan Thiết, làm thương vong một số người. Chừng ấy đoàn di tản mới chịu rời thành phố xuôi Nam nhưng lại rơi vào ổ phục kích của Việt Cộng tại cây số 37 trên Quốc Lộ 1. Số còn lại chạy thoát về tới Căn Cứ 10, thì bị Tiểu Khu Bình Tuy giải giới hết.

Ngày 7-4-1975 sau khi Lâm Đồng bỏ ngỏ, quân Bắc Việt từ Di Linh về tấn công Chi Khu Thiện Giáo của Thiếu Tá Lê Văn Thông và Trung Đội Nghĩa Quân bảo vệ Cầu Ngựa tại Xóm Gọ, đồng thời pháo kích vào Tiểu Đoàn 230 Địa Phương Quân của Đại Úy Mai Vi Thành, Quyền Tiểu Đoàn Trưởng thế Thiếu Tá Thổ Thêm bị bệnh, để chận đường tiếp viện. Trận chiến thật ác liệt, Việt Cộng mở nhiều đợt tấn công nhưng đều bị chận tại hàng rào phòng thủ, bởi mìn định hướng (Claymore), lựu đạn và những khẩu đại liên ở các lô cốt. Trận này, có sự tham dự của hai Đại Đội thuộc Tiểu Đoàn 230, do Đại Úy Tập và Trung Úy Sanh chỉ huy, thêm vào là sự yểm trợ của Pháo Binh và Trực Thăng võ trang. Sáng ngày 8-4-1975, Việt Cộng “chém vè,” bỏ lại chiến trường 72 xác chết, bên ta có 14 tử thương và nhiều binh sĩ bị thương nặng. Ngày 15-4-1975, Việt Cộng từ khắp nơi, pháo kích dồn dập vào Chi Khu Thiện Giáo. Do Đại Tá Nghĩa cho lệnh di tản và điều động Tiểu Đoàn 230 về phòng thủ Phan Thiết; Chi Khu Thiện Giáo về đồn trú tại Phú Long dưới quyền chỉ huy của Đại Úy Lê Văn Tuân, Chi Khu Phó kiêm nhiệm Quyền Chi Khu Trưởng thế Thiếu Tá Lê Văn Thông cho tới ngày Bình Thuận thất thủ 19-4-1975. Đại Uý Tuân ở lại, vào tù Việt Cộng nhiều năm và sang Mỹ qua diện H.O. tại San Jose (Bắc Cali).

TỬ CHIẾN TẠI PHÚ LONG

Chiều ngày 12/4/1974, Đại Úy Huỳnh Văn Quý đang là Liên Đội Trưởng Liên Đội Đặc Biệt, bảo vệ Nông Trường Sao Đỏ ở phía nam phi trường Phan Thiết, được chỉ đinh làm Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 249 ĐPQ thay thế Thiếu Tá Phan Sang, với nhiệm vụ tái chiếm lại Yếu Khu Phú Long đã mất từ mấy ngày qua. Vì quân số quá hao hụt, nên Tiểu Khu tăng phái thêm cho Tiểu Đoàn, Đại Đội 283 Biệt Lập của Đại Úy Nguyễn Văn Ba, một sĩ quan Lực Lượng Đặc Biệt rất gan dạ và tài giỏi. Ngoài ra Đại Úy Nguyễn Văn Hạnh, một sĩ quan thuộc Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân, đang làm việc tại Phòng 3 Tiểu Khu, cũng được chỉ định làm Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 249 thay Đại Úy Huỳnh Đắc Hóa.

Lúc 4 giờ chiều ngày 13-4-75, xe chở Tiểu Đoàn 249 và Đại Đội 283, từ Phan Thiết tới Phước Thiệu Xuân thì đổ quân và tái chiếm Phú Long bằng ba cánh: Cánh 1, do Đại Đội 283 tăng phái của Đại Úy Ba và Đại Đội 3/249 của Trung Úy Thời, đánh từ Lò Vôi tới Chợ và Cầu Phú Long. Cánh 2, do Đại Đội 4/249 của Trung Úy Thành và Trung Đội Thám Sát của Tiểu Đoàn, đánh từ Lò Vôi tới Trụ Sở Xã Phú Long. Cánh 3, do Đại Đội 1/249 của Đại Úy Đáp, tấn công hướng đông. Riêng Đâi Đội 2/249 của Đại Úy Nguyễn Chánh Trúc, làm lực lượng trừ bị cho Tiểu Đoàn.

Trận chiến rất khốc liệt, kể cả Trung Đoàn 6 thuộc Sư Đoàn 2 Bộ Binh biệt phái, mấy ngày trước vẫn phải rút về Phước Thiệu Xuân, vì hỏa lực của giặc rất mạnh, lại chiếm được nhiều cao ốc trên Quốc Lộ 1, đặt súng đại bác 57 ly và B40 bắn từ trên cao xuống. Thêm vào đó là pháo 105 ly, mà giặc đã chiếm được ở Lâm Đồng, Tuyên Đức kéo về, bắn liên tục từ Bình An sang, làm thương vong nhiều người, trong đó có Trung Úy Thời (Đại Đội Trưởng) và Trung ÚY Nhàn (Đại Đội Phó) của Đại Đội 2/249, tại Ấp Phú Trường. Vì vậy tới ngày 14-4-75, Tiểu Đoàn phải đánh cận chiến bằng lưu đạn, cũng như tranh giành từng thước đất khắp các vị trí, mới chiếm lại được toàn thể Thị Trấn Phú Long. Suốt trận đánh, dù bom đạn đã biến nơi này thành biển lửa nhưng các cấp chỉ huy chiến trường, đã cố gắng tuyệt đối để giữ nguyên vẹn những chốn tôn nghiêm, một sự khác biệt giữa người Việt Quốc Gia nhân bản, và bọn Việt Gian Cộng Sản, mang mặt người mà con tim khối óc thú vật, nên không chừa bất cứ ai, kể cả tù nhân, thương phế binh, cô nhi quả phụ… thì nói gì tới các đấng Thần Linh, Trời Phật.

ĐẠI ĐỘI 4/248 ĐỊA PHƯƠNG: ĐƠN VỊ TIỀN ĐỒN TẠI CÀ NÁ

Tiểu Đoàn 248 Địa Phương đóng tại Tuy Phong là quận cực Bắc Bình Thuận, phụ trách từ Mũi Cà Ná vào đến Bầu Đá giáp ranh quận Hòa Đa, trên một lãnh thổ phức tạp, đầy núi non, bãi biển, nhiều đảo và những cánh đồng mênh mông. Tiểu Đoàn có 4 đai đội tác chiến và 1 đại đội chỉ huy công vụ. Đại Đội 1, Trung Úy Hàm; Đại Đội 2, Trung Úy Quý; Đại Đội 3, Trung Úy Đức và Đại Đội 4, Trung Úy Hợi; Đại Đội Chỉ Huy Công Cụ (CHCV) lúc bấy giờ là Trung Úy Thức; Trưởng Ban 3 là Đại Úy Tuân, phụ tá là Thiếu Úy Thiện; Trưởng Ban Truyền Tin là Trung Úy Hải. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đóng tại cầu Đại Hòa thuộc Quận Tuy Phong. Từ tháng 3-1975, Thiếu Tá Nguyễn Văn Xuân, thuộc Binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt về thay thế Thiếu Tá Lê Văn Trung, làm Tiểu Đoàn Trưởng cho tới khi tan hàng.

Ngày 15 tháng 4 năm 1975, Đại Đội 4/248 Địa Phương của Trung Úy Nguyễn Tấn Hợi nhận được lệnh trở về Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 248, trong lúc đang tăng phái cho Tiểu Đoàn 212 ở Lương Sơn, đóng tại đập Đồng Mới, vì lý do áp lực địch tại khu vực này quá mạnh. Sáng hôm đó Đại Đội qua sông nhưng chỉ được Chi Khu Phan Lý Chàm tăng cường có 2 xe GMC chở quân nên phải di chuyển 2 lần. Đợt đầu Trung Úy Hơi đích thân đem 2 trung đội và một tiểu đội viễn thám; còn lại 2 trung đội tôi giao cho Đại Đội Phó là Trung Úy Đạt để chờ di chuyển về sau.

Trên đường di chuyển về Tuy Phong tới Bầu Đá ranh giới của Quận Hòa Đa và Quận Tuy Phong vắng vẻ thì bị phục kích nhưng 2 chiếc GMC đã thoát được và chạy về BCH/TĐ, không có một ai chết hay bị thương, Sau khi bổ sung thêm đạn dược và nhận lương khô, Đại Đội 4/248 lại được lệnh tiếp tục di chuyển ra làm tiền đồn tại Cà Ná. Đây là ranh giới của Tiểu Khu Bình Thuận và Ninh Thuận, quốc lộ số 1 chạy giữa vách núi và biển Đông được nối liền bằng cầu Đá Chẹt và mấy cây cầu nhỏ, thật hiểm trở vô cùng.

Vì tình hình quân sự biến chuyển quá nhanh tại Phan Rang, nên Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn ra lệnh cho Đại Đội 4 bỏ Cà Ná rút về đóng trên một ngọn đồi thấp, nguyên là đồn pháo binh của Mỹ tại khu vực Sở Nước Suối Vĩnh Hảo. Đây là một vị trí phòng thủ thiên nhiên rất lý tưởng, nếu nguy cấp có thể rút ra phía sau là biển.

Khoảng 10 giờ sáng ngày 16/4/1975, Trung Úy Hợi đặt ống nhòm quan sát tình hình nên đã thấy một đoàn xe đang di chuyển trên QL1 làm cát bụi bay mù mịt. Do đó đại đội đã liên lạc về Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn để báo cáo sự xuất hiện của đoàn xe lạ tại xóm Vĩnh Hảo, cách Đại Đội 4 chừng 5-6 cây số và cách Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn khoảng hơn 10 cây số. Đaị Đội 4 lúc đó chỉ còn lại 2 trung đội và 1 tiểu đội viễn thám, số còn lại bị kẹt ở Lương Sơn vì không đủ xe di chuyển.

Trong khi chờ đợi lệnh của thượng cấp từ Chi Khu Tuy Phong và Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, thì trên Quốc Lộ 1 dân chúng chạy loạn đầy đường, từ đi bộ, xe đạp, xe bò… chận lại hỏi mới biết là dân Vĩnh Hảo, vì đoàn xe Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) có xe tăng T54 và chiến xa PT76 đã ở trước xóm, trong số này có nhiều xe GMC của Tiểu Khu Ninh Thuận bỏ lại được địch sử dụng để chuyển quân.

Trước tình hình quá nghiêm trọng và trên hết coi như đã mất liên lạc với thượng cáp nên Trung Úy Hợi đã đem 2 trung đội xuống nằm ở sát chân núi, trước mặt là 1 giao thông hào và cũng nhờ nó mà Đại Đội 4 đã rút an toàn ra bờ biển, còn lại Tiểu Đội Viễn Thám thì nằm ở lưng chừng núi có gì yểm trợ, vì ở trên cao không sợ lạc đạn. Có thể nói được, đây là đơn vị cuối cùng của QLVNCH còn nằm lại trong tuyến lửa của giặc khi Phan Rang bị thât thủ.

Vì vậy khi đoàn xe CSBV đã hiện ra qua tầm nhìn với chiếc PT76 dẫn đầu đã khai hỏa nên Trung Úy Hợi đã ra lệnh cho tất ca đơn vị theo đường dẫn nước mưa được cây cối che phủ và đá bảo vệ, che kín, ra tới bờ bien nằm giữa Cửa Xuất và Long Hương (Tuy Phong). Tới nơi thì trời gần tối. Vùng bờ biển này cây mọc thành rừng, trong đó có cây Ma Vương thấp có gai nhưng trái ăn rất ngon. Lại có những bụi rù rì mọc thành từng đám có khoảng cách, giúp thêm an toàn cho đơn vị lúc phòng thủ và chờ đợi.

Cảnh vật ở đây về đêm càng âm u thê lương không thể tả, những khuôn mặt mệt mỏi, cay đắng của những người lính trận Bình Thuận hiện ra nét ưu tư vô vọng nhưng không một ai thốt ra lời oán hờn gì cả, nếu có chỉ trong lòng. Họ thấy an tâm, dù sao ở giữa mênh mông, thê lương còn có “Đại Bàng” bên cạnh để cùng nhau chia sớt tất cả buồn vui sống chết.

Đêm ở biển tối đen như mực, Trung Úy Hợi vẫn gọi máy liên lạc khắp nơi, cuối cùng thì nghe được tiếng trả lời qua một tần số rất lạ. Sau này mới biết đó là danh hiệu của Giang Đoàn 27 từ Phan Rang vô, nhưng họ bảo với Trung Úy Hợi là nếu có ai xác nhận anh là Bản Thể là tôi vô bốc anh liền. Cũng may, không biết bằng cách nào thì nhận được tiếng của Thiếu Tá Hà Văn Thành Chi Khu Trưởng Tuy Phong, xác nhận Bản Thể tức là danh hiệu của Đại Đội Trưởng lúc đó theo đặc lệnh truyền tin.

Chờ chẳng bao lạu thì có 2 người từ ngoài biển đi vô và yêu cầu gặp Trung Úy Hơi. Cuối cùng Duyên Đoàn 27 Phan Rang đã bốc hết Đại Đội 4/248 của Trung Úy Hợi ra chiếc Duyên Vận Hạm 503 đang nằm ở gần Vịnh Cà Ná đang có mặt Thiếu Tá Thành, Quận Trưởng Quận Tuy Phong. Được biết chiếc Duyên Hải Vận 503 là loại tàu chuyên chở, sáng ngày 17-4 biển động dữ dội với những đợt sóng kinh khủng. Cửa Xuất không phải là cảng cập bến cho loại tàu lớn, nên các vị sĩ quan Hải Quân trên chiến hạm này đã chận những chiếc ghe cho họ dầu và nhờ vào bờ bốc lính ra, thật đáng kính phục tình “Huynh Đệ Chi Binh” của QLCNCH.

Khi công tác cứu vớt lính còn đang tiếp diễn, thì Cộng Sản Bắc Việt từ bờ dùng pháo 130 ly trực xạ ra chiến hạm 503 đang ở rất gần Vịnh Cà Ná. Những trái đầu tiên bay qua tàu rớt xuống biển nhưng đợt sau bắn trúng tàu gây thuơng vong cho một vài chiến sĩ Hải Quân. Biển lại động mạnh làm cho thân tàu thêm lắc lư dữ dội. Đúng lúc từ ngoài khơi, qua tín hiệu cầu cứu của tàu 503, đã có 5 chiến hạm khác tới tiếp viện, nã hải pháo vào bờ như dông bảo, làm tịt ngòi pháo của CSBV. Sau đó chiếc 503 được dìu về Vũng Tàu. Riêng Đại Đội 4/248 được đưa vào Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp.

ĐẠI ĐỘI 1 TIỂU ĐOÀN 212 ĐỊA PHƯƠNG BẮN CHÁY CHIẾN XA CỘNG SẢN BẮC VIỆT ĐÊM 16-4 TẠI DỐC BÀ CHÁ, XÃ LƯƠNG SƠN, QUẬN HÒA ĐA

Chiều ngày 16-4-1975, tiền đồn Đá Chẹt (Đại Đội 4/TĐ248 ĐP, Đơn vị tuyến đầu của Tiểu Khu Bình Thuận giáp ranh với Ninh Thuận), do Trung Úy Nguyễn Tấn Hợi chỉ huy, báo cáo có 1 đoàn xe với chiến xa PT76 và T54 yểm trợ đang di chuyển về hướng Nam trên Quốc Lộ 1 và dừng lại bên kia ranh giới thuộc lãnh thổ Ninh Thuận vì lúc đó có rất nhiều chiến hạm của VNCH đang hiện diện tại Vịnh Cà Ná. Liên đoàn báo về Tiểu Khu nhưng nhiều lần Tiểu Khu vẫn khẳng định, ‘”Đó là đoàn xe di tản của Ninh Thuận...? Hải-quân có pháo vào vài quả nhưng đoàn xe địch vô sự.”

Đầu tháng 4-1975, Tiểu Đoàn 229 (Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu Tá Tiến) được điều động từ phía Bắc đồn Lương Sơn (trên lãnh thổ Quận Hòa Đa) về bảo vệ Thành Phố Phan Thiết theo lệnh của Tiểu Khu. Tiểu Đoàn 248 (Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu Tá Xuân) chịu trách nhiệm tuyến đầu trên lãnh thổ Quận Tuy Phong và đặt Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn tại cầu Đại Hòa (trên Quớc Lộ 1). Tiểu Đoàn 212 (Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu Tá Quân) chịu trách nhiệm tuyến 2 phía Nam đồn Lương Sơn cũng thuộc lãnh thổ Quận Hòa Đa. Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn và Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 212 cùng đồn trú tại đồn Lương Sơn. Đoàn xe của địch quân vẫn ở nguyên vị trí cho đến ngày 16 tháng 4 bên kia tiền đồn Đá Chẹt.

Khoảng 4 giờ chiều ngày 16 tháng 4, Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 925 Lưu Động Địa Phương mất hẳn liên lạc truyền tin với Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Bình Thuận, lúc đó gồm 3 thành phần: Bộ Chỉ Huy Tiền Phương của Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa đóng tại Lầu Ông Hoàng; Bộ Chỉ Huy Nhẹ do Trung Tá Đỗ Trọng Trí, Tiểu Khu Phó kiêm Tham Mưu Trưởng + Phòng 3 Tiểu Khu chỉ huy, đóng tại Trung Tâm Chiêu Hồi ở Vĩnh Phú và Trung Tâm Hành Quân Tiểu Khu do Thiếu Tá Phạm Minh, Tham Mưu Phó Hành Quân Tiếp Vận chì huy (không biết vì lý do kỹ thuật hay đài tiép vận Tà Dôn đã di tản), Tiểu Đoàn 248 và 4 Chi Khu Bắc Bình Thuận) (?). Nhưng căn cứ theo tài liệu của các sĩ quan chỉ huy lúc đó thì máy truyền tin của của ba Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Bình Thuận vẫn hoạt động ngày đêm, hơn nữa qua PRC25 có thể liên lac trực tiếp với Tiểu Đoàn 249 Địa Phương của Đại Úy Huỳnh Văn Quý .. đang chiến đấu tại Phú Long, không xa Lương Sơn là mấy).

Lúc đó BCH Liên Đoàn 925 đã dời từ Sông Mao về Lương Sơn, do TĐ212/ĐP bảo vệ nên Đại Tá Khuy ra lệnh cho Tiểu Đoàn này phải tháo gỡ một số mìn chống chiến xa ở một vài vị trí không cần thiết và gài đặt lại ở những vị trí mới như cầu Phan Rí Cửa, cua giốc Bà Chá để cản bước tiến của địch quân và vài nơi khác, bảo vệ đồn Lương Sơn. Đồng thời cho mở kho phát hết súng chống chiến xa M72 cho binh sĩ.

Theo Thiếu Úy Đỗ Văn Khuyến (Đại Đội Phó ĐĐ4/Tiểu Đoàn 212 ĐP) và Thiếu Úy Bùi Đảo (Đại Đội Phó/ĐĐ3/TĐ212) đã xác nhận các sự kiện lịch sử có liên quan tới “Trận Phục Kích Bắn Cháy Chiến Xa Của CSBV tại Lương Sơn” vào đêm 16-4-1975. Lúc đó Tiểu Đoàn 212 Địa Phương được phối trí như sau :

--Đại Đội 1 do Đại Úy Vĩnh (hiện ở Hoa Kỳ) chỉ huy, bố trí tại Đồi Cát Đỏ trước mặt Xóm Nùng. Vị trí này nằm gần Dốc Bà Chá và Xóm Ruộng, có một Bến Phà vượt sông Lũy ra QL1 (đoạn đường Sông Lũy, Suối Nhum, Lương Sơn). Theo lệnh cấp trên, Đại Úy Vĩnh đã cho gài một hàng rào mìn chống chiến xa từ Xóm Nùng tới Xóm Ruộng để phòng thủ vị trí đóng quân.

Đêm 16 rạng ngày 17-4-1975, quân CSBV sau khi vượt qua các quận Tuy Phong, Hòa Đa, Phan Lý Chàm .. tiến tới Xóm Nùng Lương Sơn (không phải Xóm Nùng tại Suối Nhum Sông Lũy) thì vướng bãi mìn chống chiến xa của Đại Đội 1/TĐ229ĐP khiến nhiều chiếc bốc cháy. Những xe tăng còn lại bắn trả dữ dội tứ phía. Do đó Đại Đội 1 phải nằm yên tại vị trí cũ ở trên đồi cát nên dù Việt Cộng pha đèn sáng trưng tìm kiếm vẵn không phát giác được tung tích của ta. Cuối cùng chúng cho một thành phần nhỏ tiếp tục tiến về hướng Lương Sơn. Số còn lại quay về hướng Phan Rí.

--Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 212 đóng chung với Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 925 ĐP của Đại Tá Khuy trong Căn Cứ Lương Sơn, có Đại Đội 2+3 /212 do Thiếu Tá Quân chỉ huy. Khi nhận được báo cáo của ĐĐ1/212ĐP phát giác xe tăng CSBV đang di chuyển trên QL1 gần Lương Sơn, nên các đơn vị trú đóng tại các căn cứ, được lệnh phải di tản ra khỏi đồn để tránh pháo rồi sáng trở về chỉ để lại một lực lượng nhỏ phòng thủ đồn mà thôi. Đoàn quân di chuyển về hướng Bắc kéo theo 2 khẩu đại bác 105 ly và tất cả đạn pháo vượt sông Lũy đến vị trí mới (đồn Lương Sơn cũ) bố trí quân chờ trời sáng.

Tiếng nổ vang trời bùng lên một vùng sáng chói, đồng thời tiếng xích tiếng xe ngưng bặt . Bảy chiếc T54 trong đoàn xe của chúng đã cán phải bãi mìn chống chiến xa của ĐĐ1/212 và bốc cháy tại cua giốc Bà Chá. Lúc đó đồng hồ đúng 3 giờ sáng rạng ngày 17 tháng 4-1975. Do tổn thất quá nặng nên CSBV phải mất một thời gian khá dài để tải thương, dọn xác và ổn định lại hàng ngũ mới tiếp tục lên đường. Chiếc T54 khác dẫn đường đoàn xe đến trước đồn Lương Sơn lúc trời chưa sáng.

Tối 17-4-1975, các cánh quân còn lại của Liên Đoàn 925 có Đại Đội 1/212 của Đại Úy Vĩnh qua sông Lũy tới Suối Nhum, băng qua mật khu Lê Hồng Phong ngang Bàu Trắng để ra bãi biển chờ chiến hạm Hải Quân tới cứu. Sáng ngày 18-4 quân ta tới Hòn Rơm thì đụng trận với Việt Cộng dữ dội nên mãi tới chiều 18-4 mới tới được Hòn Hồng, Hòn Nghệ gần Mũi Né và bố trí quân trong đêm. Trong cuộc đụng độ này, tuy ĐĐ3/212 mở đường nhưng ĐĐ2/212 lại chạm địch nặng. Ngoài ra Đại Úy Bá (Tiểu Đoàn Phó TĐ212/ĐP) đã dẫn một cánh quân đi ngược đường về Lương Sơn và mất tích luôn từ đó đến nay.

Sáng ngày 19-4-1975 tại bờ biển Hòn Rơm, Đại Úy Vĩnh đi với một hiệu thính viên trên một chiếc thuyền nhỏ ra biển và tìm được 3 thuyền đánh cá lớn. Nhờ vậy đã chuyển được số quân nhân còn lại của Tiểu Đoàn 212 vào Vũng Tàu. Trên biển khi đoàn ghe tới Bình Tuy thì gặp được Chiến Hạm HQ nên tất cả chuyển qua tàu lớn về Nam.

Còn Đại Đội 4/212 của Trung Úy Thê lúc đó đang đóng tại Cây Táo. Sau khi nhận được tin Tiểu Đoàn đã rút ra Hòn Rơm nên cũng bỏ vị trí rút theo. Sau đó Đại Đội này liên lạc được với Chi Khu Hải Long, cho biết vào lúc 9 giờ sáng ngày 18-4-1975, Thiếu Tá Hàng Phong Cao sẽ di tản. Nhờ vậy đơn vị này cũng tháp tùng theo Chi Khu về Vũng Tàu.

Trong cuộc lui quân của Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 925 và Tiểu Đoàn 212 Địa Phương, theo lời kể của các quân nhân dưới quyền, thì chính Đại Úy Vĩnh ngoài việc chỉ huy “Trận Phục Kích Bắn Cháy Xe Tăng” của CSBV tại Lương Sơn, ông còn đưa được Tiểu Đoàn vào Vũng Tàu an toàn. Tóm lại theo tất cả nhân chứng có mặt tại chiến trường trong đêm 16 rạng ngày 17/4/1975, thì Đại Đội 1 thuộc Tiểu Đoàn 212, Liên Đoàn 925 Địa Phương, dưới quyền chỉ huy của Đại Úy Vĩnh, đã dùng mìn chống chiến xa làm cháy 7 xe tăng của CSBV tại dốc Bà Chá, nằm giữa hai Xóm Ruộng và Xóm Nùng gần Lương Sơn, trên Quốc Lộ 1, đoạn từ Suối Nhum đi Lương Sơn (Hòa Đa, Bình Thuận).

Sau ngày 1-5-1975, các sĩ quan thuộc Tiêu Khu Bình Thuận, khi di chuyển từ trại Tù Kà Tót về Tổng Trại 8 Sông Mao, đi lao động khổ sai tại Nông Trường Bông Vải gần Đập Đồng Mới (Lương Sơn), vẫn còn thấy xác 3 chiếc xe tăng của CSBV bị cháy gồm 2 PT76 và T54. Còn 4 chiếc khác có lẽ sửa chữa được nên chúng đã kéo đi mất dạng.

Đó là tất cả những chiến tích oai hùng của các chiến sĩ Đia Phương Quân và Nghĩa Quân thuộc Tiểu Khu Bình Thuận, đến giờ phút cuối cùng, từ binh sĩ tới các cấp chỉ huy đơn vị vẫn ở lại chiến đấu với kẻ thù tại mặt trận.

TIỂU ĐOÀN 249 ĐỊA PHƯƠNG BỎ PHÚ LONG ĐÊM 18-4-1975

Sau đó, TĐ249 và ĐĐ283 Biệt Lập cố thủ tại Phú Long, cho tới chiều ngày 18-4-1975 được lệnh lui quân, vì các binh đoàn của Cộng Sản Bắc Việt đã vào tới Xã Tùy Hòa. Tuy Phan Rang đã thất thủ từ chiều ngày 16-4-1975, nhưng CSBV đã tổn thất rất nặng nề tại mặt trận này, hơn nữa dọc theo bờ biển, từ Mũi Dinh vào tới Vịnh Cà Ná có rất nhiều chiến hạm của Bộ Tư Lệnh Vùng 2 Duyên Hải, nên chúng chỉ dám tới Cầu Đá Chẹt, ở bên kia ranh giới tỉnh Bình Thuận mà thôi. Vì Bắc Bình Thuận đã bỏ ngỏ ngay từ chiều 16-4-1975, nên binh đoàn Bắc Việt tiến vào Phan Thiết rất nhanh và chiều ngày 18-4-75, đã tới Tà Dôn. Bởi vậy Đại Úy Quý , xin Đại Tá Nghĩa, tăng cường Chi Đoàn Thiết Giáp của Sư Đoàn 2 Bộ Binh, đóng tại Phước Thiệu Xuân, cùng với Trung Đoàn 6/SĐ2BB, do Trung Tá Tôn Thất Hổ làm Trung Đoàn Trưởng, nhưng Tiểu Khu không đáp ứng, vì các đơn vị tăng phái này, đang chuẩn bị rút về Nam, khi biết tin quân Bắc Việt sắp tới Phú Long. Khoảng 6 giờ chiều ngày 18-4, qua hệ thống truyền tin, Đại Úy Quý, biết Bộ Chỉ Huy Tiền Phương của Đại Tá Nghĩa, đóng trên Lầu Ông Hoàng, đã rút ra bờ biển, theo đường Phú Hài về Phan Thiết. Dù nhận lệnh cố thủ Phú Long, nhưng Quý không thể chấp hành lệnh, khi tất cả các đơn vị, kể cả Thiết Giáp đã rút. Lúc đó, coi như Tiểu Đoàn 249 và Đại Đội 283 Địa Phương Quân là đơn vị đoạn hậu (bọc hậu?).

Tuy nhiên cuộc rút quân, chỉ thực hiện, khi biết xe tăng địch đã tới Xã Tuỳ Hòa, cách Phú Long chừng 2 cây số, vào lúc 7 giờ tối. Theo kế hoạch, ĐĐ4/249 đóng ở Cổng Bắc xa nhất, rút trước. Còn ĐĐ2/249 là thành phần trừ bị, nên rút sau cùng. Vì nghĩ rằng sẽ về tái chiếm lại , nên Đại Úy Quý không cho phá Cầu Phú Long ngang sông Cả trên QL1, mà chỉ gọi Hải pháo bắn yểm trợ. Trong lúc TĐ249 rút quân, thì máy của Thiết Giáp/SĐ2BB, liên lạc ngăn chận, bảo chờ gở mìn, thật sự họ đã rút về tới Cổng Chữ Y rồi.

Tại Lầu Ông Hoàng, lúc đó còn có ĐĐ1/275ĐPQ của Đại Úy Nguyễn Đình Úy, từ Tà Dôn rút về. Riêng ĐĐ290/ĐPQ Biệt Lập của Đại Úy Sâm, thì từ lâu đã ở đó, để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Nhẹ của Tiểu Khu và Trung Đội Pháo Binh 105, đóng tại đây. Cuối cùng trong đêm 18-4-1975, TĐ249 và ĐĐ283 rút về Rạng và được thuyền đánh cá, chở tới Vũng Tàu. Riêng ĐĐ 1/275 của Đại Úy Uý và ĐĐ290 của Đại Úy Sâm, chỉ rút khỏi Lầu Ông Hoàng, khi xe tăng Việt Cộng tấn công .

Tại QL1, dù SĐ2/BB cũng như các TĐ249/DPQ và TĐ274/DPQ rút về Phan Thiết, nhưng các Trung Đội Nghĩa Quân vẫn ở lại, dù có lệnh di tản. Chính Họ đã bắn cháy một T54 trước Nhà Thờ Kim Ngọc. Kiêu hùng nhất là Trung Đội Nghĩa Quân Phước Thiện Xuân của Bảy Neo (Trung Đội Trưởng) và Phụ Tá là Bảy Bửu (Ủy Viên Cảnh Sát) nhất quyết ở lại không chạy. Được biết cả hai sau đó trốn vào rừng, thay tên đổi họ lưu lạc khắp bốn phương trời. Việt Cộng nhiều lần bắt vợ con hù dọa nhưng vẫn không tìm ra tung tích hai vị anh hùng vô danh trên.

Tiểu Đoàn 275/ĐP của Thiếu Tá Nguyễn Tư vào những ngày tháng 4-1975 đóng tại xã Kim Ngọc. Ngày 18-4 khi căn cứ Lương Sơn bị bỏ ngỏ thì ĐĐ4/275 ĐP đóng trên núi Tà Dôn để bảo vệ Đài Tiếp Vận Truyền Tin của Tiểu Khu và hai khẩu pháo 105 ly (do Thiếu Úy Hiếu người Phú Long làm Trung Đội Trưởng). Khi đoàn xe tăng CSBV di chuyển trên QL1 tiến về Phú Long, đơn vị này được lệnh phá bỏ hai khẩu pháo, đài truyền tin và hệ thống “Radar” trên đỉnh núi Tà Dôn. Sau đó đại đội này băng ngang qua Giếng Triềng rút về Mũi Né và sáng ngày 19-4 được một xà lan vớt đem ra chiến hạm chở về Vũng Tàu.

Còn Đại Đội 1/275 được tăng cường cho TĐ249/ĐP trấn giữ cầu Phú Long, đặt dưới quyền chỉ huy của Đại Úy Nguyễn Văn Hạnh, Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 249ĐP. Riêng Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 275 và hai Đại Đội còn lại do Thiếu Tá Tư chỉ huy đóng tại ngã ba xã Kim Ngọc và Cầu Ké. Đêm 18-4 cũng rút về Thanh Hải và Thương Chánh nhờ ghe vớt tới Vũng Tàu

TỬ CHIẾN TRONG THỊ XÃ PHAN THIẾT

Từ ngày 15-4-1975, Tiểu Đoàn 229/ĐP được lệnh phòng thủ từ Cầu Sở Muối trên QL1 qua tới Tân An trên Liên Tỉnh Lộ 8, tiếp giáp với Tiểu Đoàn 202/ĐP của Đại Úy Huỳnh Văn Hoàng. Ba Đại Đội 2,1,4 dàn quân thành vòng cung, từ QL1 tới Tỉnh Lộ 8, ôm trọn phía bắc Ấp Tân Điền. Còn Đại Đội 3/229 của Trung Úy Quang, đóng ở Ruộng Muối ngang với Ấp Tân Điền, Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đóng dưới chân Cầu Sở Muối. Lúc bấy giờ Tiểu Đoàn 249/ĐP của Đại Úy Quý đang anh dũng tử chién với giặc tại Phú Long, nên CS pháo kích vào Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 229 liên tục nhưng không gây thương vong cho người nào.

Theo lời Trung Úy Sơn kể, “Trưa ngày 18-4-1975, tôi nhận được lệnh đem ĐĐ4/229 tấn công tái chiếm Tân Điền. Sau khi được pháo binh và súng cối 81 ly của TĐ bắn yểm trợ, chúng tôi xung phong vào Ấp, qua sự yểm trợ của ĐĐ2/229 của Đại Úy Duyên và ĐĐ1/229 của Trung Úy Thứ. Hỏa lực của địch phản công dữ dội, khiến 1 Chuẩn Úy và 2 Binh Sĩ bị thương nặng, nên tôi xin lệnh rút lui. Sau khi trở về vị trí phòng thủ, tôi nhận được lệnh TỐI NAY GIỜ N LÀ LÚC CẦU PHÚ LONG BỊ GIỰT SẬP. Từ đó Tiểu Đoàn sẽ lui quân xuống bãi biển Bình Tú, chờ tàu Hải Quân vào vớt, chở tới Vũng Tàu. Đây là tiêu lệnh của Đại Tá Nghĩa ban hành cho đơn vị tôi, còn các cánh quân ĐPQ khác đang tham chiến tại Phan Thiết và vùng phụ cận không biết thế nào vì tình hình lúc đó đã hỗn loạn nên không liên lạc được.

Nhưng cả tiểu đoàn chờ mãi tới 8 giờ tối vẫn không thấy tín hiệu, trong lúc đó có trung đội Nghĩa Quân đóng ở một đồn nhỏ cạnh QL1, liên lạc xin được nhập chung với Đại Đội tôi để rút quân. Tới 9 giờ tối, nhìn về Phú Long vẫn im hợi lặng tiếng, khác với những ngày qua, lúc nào bom đạn cũng nổ rầm trời. Chờ tới 10 giờ, thì nghe tiếng xích sắt của xe tăng Việt Cộng lăn trên quốc lộ, thật ghê rợn, tiếp theo là tiếng đại bác trên xe tăng nhắm bắn vào tháp chuông của nhà thờ Kim Ngọc. Lúc đó tôi đã gọi máy báo cáo về Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn rằng xe tăng của địch đã qua cầu Phú Long và đang tiến về hướng Phan Thiết. Nhưng Thiếu Tá Tiến không tin, bảo đó là tiếng máy cầy kéo vỉ sắt để hù chúng ta (Thiếu Tá Tiến sau khi đi tù cải tạo về, được con bảo lãnh sang Úc và qua đời vì bệnh), ngoài ra cho biết sẽ bắn trái sáng để cho tôi quan sát, còn ra lệnh bắn hạ ngay chiếc xe đi đầu. Nhưng lệnh chưa thi hành kịp, thì xe tăng chỉ còn cách chúng tôi chừng 200m. Vì trước sau đều có địch, nên tôi ra lệnh nằm im tại chỗ, lúc đó xe tăng chạy ngang đồn Nghĩa Quân đã nả vào mấy trái, rồi tiếp tục chạy về hướng Phan Thiết. Khi hai bên còn cách nhau 100m, thì Tiểu Đoàn bắn đạn chiếu sáng nên địch phát giác được và quay pháo tháp về phía chúng tôi khai hỏa. Đơn vị tôi tháo chạy về phía Tân An, cùng ĐĐ1 và 2. Riêng ĐĐ3 thì chạy về hướng Hưng Long và được tàu đánh cá chở tới Vũng Tàu. Lúc xe tăng qua cầu Sở Muối, Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn nằm ở dưới chân cầu, nên lặng lẽ rút về hướng Tân An.

Sau khi qua cầu, xe tăng địch quẹo vào con đường nhỏ nối liền QL1 và đường Lương Ngọc Quyến, để truy sát TĐ229. Cũng may lúc đó, chúng tôi liên lạc được với Đại Tá Nghĩa đã di tản ra Chiến Hạm HQ Trần Khánh Dư, trước khi ban lệnh “Di Tản Cho Các Đơn Vị.” Tiểu Đoàn xin Đại Tá gọi Không Quân yểm trợ, để lui binh vì không thể băng ngang Phan Thiết xuống Bình Tú, mà phải đi vòng phía sau nhà thương và lội sông Cà Ty mới thoát được. Riêng TĐ202 của Đại Úy Hoàng, đã rút từ chiều. Nói chung giờ này, chỉ còn đơn độc TĐ229/ĐP kẹt ở phía tây bắc Phan Thiết mà thôi.

Trong lúc nguy ngập, thì một chiếc Hỏa Long C-47, được Đại Tá Nghĩa đích thân gọi từ tàu Hải Quân, xuất hiện cứu kịp chúng tôi, bằng cách thả hỏa châu và bắn đại liên vào vị trí địch. Hai bên quần thảo chừng 10 phút thì Hòa Long trúng đạn phòng không của địch, từ Tân Điền bắn lên, nên phải bay về Biên Hòa. Nhờ vậy mà cả TĐ229, mới có cơ hội, chạy tới bờ sông Cà Ty, để lội qua phía bên Phú Lâm. Khi điểm lại quân số, chỉ riêng ĐD4/229 từ 120 người, sau khi đụng với xe tăng, chỉ còn lại 50 người. Tất cả qua sông, tới QL1 lúc 4 giờ sáng và di chuyển xuống bãi biển Bình Tú vào lúc 5 giờ sáng ngày 19-4-1975 đề chờ tàu HQ như kê hoạch đã định.

Tóm lại cũng nhờ Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa di tản được ra chiến hạm sớm, nên ông mới liên lạc với Bộ Tư Lệnh Vùng 2 Duyên Hải, giúp đoàn tàu đổ bộ vào bờ, cứu hết các đơn vị ĐPQ/BT vào lúc 2 giờ chiều ngày 19-4-1975. Có một số đi theo bờ biển vào Bình Tuy nhưng tới Ba Hòn thì bị phục kích, nên quay trở lại và cũng được tàu HQ vớt. Khi mọi người ra hết tàu Trần Khánh Dư, thì được chuyển sang hai “tàu há mồm.” Tất cả quân số chừng 5000 người, được chở về Vũng Tàu. Vậy mà có người dám viết là “Binh Sĩ Bình Thuận những ngày cuối cùng, chiến đấu không có đại bàng? “

Trong khi đó, khắp Thị Xã Phan Thiết, từ 9 giờ tối đêm 18-4, xe tăng và bộ binh của Bắc Việt, đã tràn ngập nhưng chỉ chiếm được Tòa Hành Chánh và Tiểu Khu đã bỏ ngỏ. Còn các vị trí quân sự khác vẫn do Địa Phương Quân Bình Thuận trấn giữ, như ĐĐ206 Trinh Sát của Đại Úy Hùng, ĐĐ954/ĐPQ của Đại Úy Mai Xuân Cúc, Yếu Khu Châu Thành của Thiếu Tá Cư và Xã Châu Thành Phan Thiết của Thiếu Tá Hải. Nói chung, khắp thành phố lửa đạn mịt mù, Việt Cộng tuy vào được trong thành phố nhưng chỉ cố thủ trong các vị trí vừa chiếm được, chứ không dám bung ra trong đêm, vì chỗ nào cũng còn quân ta chiến đấu , chứ không tan hàng như tại các địa phương khác. Quan trọng nhất, là máy truyền tin của ba Bộ Chỉ Huy Bình Thuận vẫn hoạt động liên tục (Đại Tá Nghĩa, Thiếu Tá Trị và Phó Cửu), để theo dõi và ra lệnh cũng như hướng dẫn các đơn vị, tới các vị trí an toàn, chờ các chiến hạm của Bộ Tư Lệnh Vùng 2 Duyên Hải, vào vớt chở tới Vũng Tàu..

NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG TẠI QUÂN Y VIỆN ĐOÀN MẠNH HOẠCH

Đại Úy Lê Bá Dũng sinh năm 1940 tại Đà Lạt nhưng từ năm 1944 đã theo song thân (GS Lê Bảo, Hiệu Trưởng trường Trung Học Tư Thục Bạch Vân) tới lập nghiệp tại Phan Thiết. Sau khi đỗ Tú Tài II tại Trường Trung Học Võ Tánh Nha Trang, ông vào Sài Gòn học và tốt nghiệp Bác Sĩ năm 1967. Ngày 10-1-1968, tổng động viên theo Lệnh Trưng Tập Khóa 10 Y Sĩ (chừng 200 người). Vì biến cố Tết Mậu Thân (1968), nên đặc biệt khóa này, đã tới học quân sự tại Trường Võ Bị Đà Lạt 2 tháng, mới trở về tiếp tục học tại trường Quân Y tại Sài Gòn. Mãn khóa, ông phục vụ tại Bệnh Viện Quảng Trị, cho tới cuối năm 1971, mới xin thuyên chuyển về Qu6n Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch, mang câp bậc Đại Úy.

Lúc đó QYV/ĐMH do Y Sĩ Thiếu Tá Võ Đạm làm Chỉ Huy Trưởng, Y Sĩ Đại Úy Nguyễn Văn Lâm là Chỉ Huy Phó. Ngoài ra còn có Bác Sĩ Đại Úy Bùi Hoành (Cựu Tỉnh Trưởng Dân sư Quảng Ngãi, khóa 10/Trưng Tập), sau cùng với Bác Sĩ Thiếu Tá Đinh Xuân Dũng, biệt phái về Dân Y Viện Phan Thiết. Bác Sĩ Đại Úy Nguyễn Hữu Toại (Sĩ Quan Quản Lý), Đại Úy Nguyễn Tư (Hành Chánh), Đại Úy Bác Sĩ Lê Bá Dũng (Trưởng Khối Chuyên Môn), Đại Úy Bác Sĩ Duyên (Điều Dưỡng, đã chết trong tù), Tôn Thất Phùng (Trung Úy Trợ Y), Trung Úy Nguyễn Văn Công (Sĩ quan An ninh và Chiến Tranh Chính Trị).

Những ngày đầu tháng 4-1974, Y Sĩ Thiếu Tá Võ Đạm (Chỉ Huy Trưởng), đã dọn nhà, cuốn gói, chở vợ con, đào ngũ về Sài Gòn. Lúc bấy giờ , Đại Úy Lê Bá Dũng là Chỉ Huy Phó, đã phải vào Sài Gòn bằng ghe, để trình diện Cục Quân Y, xin bổ sung tiếp tế thuốc men đang thiếu hut, mà số thương bệnh binh lại quá đông, từ các mặt trận tải về. Sau khi trình diện Chuẩn Tướng Phạm Hà Thanh, Cục Trưởng Quân Y, Đại Úy Dũng được cử làm Quyền Chỉ Huy Trưởng QYV Đoàn Mạnh Hoạch, thế cho Võ Đạm, đã bị báo cáo đào ngũ với giấy báo thị tầm nã.

Bác Sĩ Dũng trở về Phan Thiết bằng trực thăng UH1B, cùng với 1 Hạ Sỉ Quan Quân Y có nhiệm vụ tải các thuốc men cần dùng về QYV. Tại phi trường Phan Thiết, Đại Úy Dũng đã gặp Đề Đốc Chung Tấn Cang (Tư Lệnh Hải Quân) và Đại Tá Nghĩa, với lời hứa “sẽ yểm trợ và cứu giúp kịp thời QYV khi cần thiết.” Để tiện liên lạc, Tiểu Khu đã cấp cho QYV một máy truyền tin PRC25, đề phòng khi đường dây liên lạc bằng điện thoại bị cắt.

Ngày 18-4-1975, đã có một số binh sĩ đào ngũ nhưng QYV vẫn hoạt động, để chăm sóc và điều trị thương bệnh binh và phòng thủ. Kể từ lúc 6 giờ chiều, tình hình Phan Thiết đã bắt đầu hỗn loạn, khắp nơi lửa đạn mịt mù, của ta lẫn đích. Tiếng nổ càng lúc lúc càng lớn và thêm gần. Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Yểm trợ Tiếp Vận là Thiếu Tá Phạm Minh, cùng với một số sĩ quan và binh sĩ, đã di tản tới QYV vì tình hình quá nguy khổn. Lúc 11 giờ 30 phút, QYV nhận được lệnh “Di Tản của Tiểu Khu,” thay vì đường bộ, sẽ di chuyển theo đường bờ biển Bình Tú, chờ tàu Hải Quân vào vớt. Cũng may QYV đã cho làm một con đường bậc thang phía sau, để đi xuống bãi biển .

Tất cả tính luôn quân số đơn vị và thương bệnh binh, được 200 người. Vì con đường dốc rất cao, nên chỉ có thể di chuyển các thương bệnh binh nhe. Đó là nổi khổ tâm của người bác sĩ nhưng hoàn cảnh quá cấp bách và nguy khốn, nên cũng đành chịu. Ngoài biển, đèn của tàu thuyền đánh cá sáng rực một góc trời, nhìn không biết cứ tưởng đó là một thành phố. Xa về phía thành phố Phan Thiết, Lầu Ông Hoàng, phía bên đường 8 đi Thiện Giáo, bom đạn vẫn liên hồi vang dậy không dứt, thỉnh thoảng là ánh hỏa châu soi sáng cả vùng. Phan Thiết chìm ngập trong lửa đỏ, thảm cảnh của chiến tranh, chỉ có người Lính đang chiến đấu và người Dân bị tai ương, mới cảm nhận được nỗi đau khổ này mà thôi.. Tất cả nằm yên trên bãi biển, cứ mở máy PRC25 để theo dõi nhưng vẫn không nhận được lệnh lạc gì. Còn trên QYV tình hình cũng yên tĩnh, không có gì thay đổi.

Nằm yên tại chỗ tới 3 giờ sáng ngày 19-4-1975, Đại Úy Dũng ra lệnh di chuyển về hướng Bình Tú. Đoạn đường chỉ xa vài cây số nhưng rất khó đi, vì bãi biển mọc đầy dây rễ chằng chịt, vô ý là vấp té, nhất là các thương bệnh binh. Do đó tới gần 7 giờ sáng, mới tới điểm hẹn. Tại đây đã có mặt rât nhiều đơn vị ĐPQ/BT chờ tàu HQ tới đón. Thiếu Tá Tiến (Tiểu Đoàn Trưởng 229) và Đại Úy Hoàng (Tiểu Đoàn Trưởng 202), đã bố trí đơn vị thành hình cánh cung, để bảo vệ cho Thương Bệnh Binh và QYV.

Đúng 12 giờ trưa ngày 19-4-1975, tàu HQ vào bờ đón quân. Theo lời kề của Bác Sĩ Dũng, thì cuộc di tản rât trật tự, cảm động nhất là ai cũng nhường cho QYV và thương bệnh binh lên tàu trước, sau đó mới tới phiên mọi người. Đoàn tàu vào bờ thuộc loại đổ bộ và “Ferro-Ciment.” Ngoài ra còn có cac ghe thuyền của Duyên Đoàn 28 cũng cặp sát bờ, để mà vớt lính. Trong lúc đó, nhìn về hướng phi trường Phan Thiết, đã thấy bóng dáng của xe tăng Bắc Việt xuất hiện. Cuộc lui quân của Tiểu Khu Bình Thuận chấm dứt vào lúc 2 giờ chiều ngày 19-4-1975, số quân di tản được trên 3000 người, trong tổng số 13.000 quân của tỉnh. Tất cả lính được dồn vào ba chiến hạm, chạy ra đậu ngoài tầm đại bác, cho tới trời sập tối mới được di chuyển về Nam và tàu cập bến Rạch Dừa vào sáng ngày 20-4-1975. Tai đây tất cả Thương Bệnh Binh được gửi vào điều trị tại QYV Nguyễn Văn Nhứt, còn Đại Úy Dũng và quân nhân QYV Đoàn Mạnh Hoạch về trình diện Cục Quân Y ở Sài Gòn. Riêng tại QYV ở Phan Thiết, sáng ngày 20-4-1975, Trung Sĩ Nguyễn Văn Sáu, Y Tá Trưởng đã bàn giao cho Việt Cộng, còn tất cả thương bệnh binh nặng nhẹ, đều bị đuổi về nhà.

Cùng di tản với Đại Úy Dũng, còn có Đại Úy Toại, Thành, Tư, Trung Úy Công, Phương, Thọ. Những ngày đầu thang 5-1975, Bác Sĩ Dũng, Đại Úy Tư, Trung Úy Thọ về Phan Thiết trình diện và cùng vào tù tại Kà Tót. Ở đây Tư bị bệnh sốt rét chết, còn Bác Sĩ Dũng chuyển ra Sông Mao, Sông Cái, Lương Sơn, Huy Khiêm.. tổng cộng hơn 7 năm tù. Năm 1992, ông được tới Mỹ qua diện H.O., hiện định cư tại Houston (Texas).

Riêng các đơn vị ĐPQ/BT, khi tàu vào Bến Đình, đã có Đại Tá Vũ Huy Tạo , Thị Trưởng Vũng Tàu và Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa, Tỉnh Trưởng Bình Thuận chờ sẵn, đón các đơn vị, đưa về Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp, tái trang bị và tiếp tục chiến đấu khắp lãnh thổ Phước Tuy, cho tới khi Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng, mới tan hàng. Sau đó, tất cả các Sĩ Quan của TK Bình Thuận, bị chở về Xuân Lộc và tập trung trong doanh trại cũ của Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn 43/SĐ18BB và đi tù cải tạo chung với Sĩ Quan của SĐ5BB, khắp các trại tù miền Bắc. Ngoài ra, đêm 18-4-1975, Trung Tá Dụng Văn Đối, Quận Trưởng Hàm Thuận, đã chỉ huy các đơn vị Địa Phương Quân, Liên Đội Nghĩa Quân, Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn, Cảnh Sát, Viên Chức Xã Ấp thuộc Chi Khu, cùng với Pháo Binh và một Chi Đội Thiết Giáp V100, di tản bằng đường bộ vào tới ngã ba Bình Tuy thì bị Tiểu Khu giải giới và tan hàng tại đây vì không được tiếp tế và giúp phương tiện di chuyển về Vũng Tàu. Tuy vậy hầu hết các binh sĩ Bình Thuận đã tìm đủ mọi cách để vượt thoát và cuối cùng tập họp lại tại Bà Rịa để tiếp tục chiến đấu cho tới ngày cuối cùng. Riêng Tiểu Đoàn 274 ĐP/BT của Thiếu Tá Bình vì rải rác từ Phú Hội lên tới Mương Mán nên thu quân không kịp nhưng giờ chót cũng tập trung tại bãi Kim Hải và được tàu Hải Quân chở về Nam .

Ngày 20-4-1975, Bình Thuận coi như đã lọt vào tay Hà Nội, Việt Cộng lập ra ủy ban quân quản thị xã, do Thiếu Tá VC Từ Quảng Tuyên làm Chủ Tịch, khắp nơi lập ra 16 địa điểm để các quân, công, cán, cảnh VNCH tới khai báo trình diện, để cùng nhau vào địa ngục trần gian tại Cà Tót, Huy Khiêm,Sông Mao và mọi nẻo đường tận tuyệt.

Hỡi ơi, đời là vậy đó, lính khổ như thế đó nhưng có bao nhiêu người cần biết tới họ, ngoài những bà mẹ già một lần tiễn con thơ lên đường nhập ngũ, những cô gái có người yêu là lính chiến, chỉ một lần và một lần thồi rồi trở thành nàng Tô Thị Vọng Phu trông chồng nơi biên tái như Trương Đức Nghi, Phan Thi Sâm, Nguyễn Kim Sang, Hồ Thị Ngọc Trai.. và muôn ngàn người yêu, người vợ của lính, nay chỉ biết âm thầm thay chồng nuôi con. Đó đời lính, đời phế binh, đời quả phụ cô nhi của VNCH thảm thê tận tuyệt, không phải chỉ xảy ra trong quá khứ mà tới bây giờ vẫn hận hờn tê tái, đó là chưa nói tới nổi đau bị chính bạn bè đồng đội ta vì đố kỵ mà nhẫn tâm đâm tan nát trái tim người.

Cho nên nỗi đau của lính trong quá khứ, tưởng đâu đã hóa đá theo nàng Tô Thị Vọng Phu, nay bỗng bừng lên ánh lửa hồng soi sáng những khuôn mặt đẹp của người chinh phụ Việt Nam Cộng Hòa, bên cạnh hình ảnh phi thường của người lính trận. Tất cả cùng đóng góp máu xương để tô bồi thêm dầy những trang Việt Sử. Ngày 19-4-1975 tuy Phan Thiết bị lọt vào tay giặc nhưng các Anh đã chiến đấu thật hào hùng cho tới giây phút cuối. Máu người lính trận thấm vào đá núi cây rừng, hòa chung trong giòng nưóc Mường Giang, trở thành bất tử như những địa danh Tà Dôn, Tà Cú, Tháp Nước, Ngôi trường… để đời đời con cháu mai sau được xanh hạnh phúc. Các Anh đã viết tiếp những trang Sử Vàng Ba Trăm Năm Bình Thuận, làm chói lọi rực sáng thêm nòi giống Lạc Hồng, khiến cho người lính già, đang vất vưởng úa tàn ngoài biên tái mà cứ tưởng như mình đang cùng đồng đội trẩy bước quân hành, qua những con đường quê hương biển mặn, giữa hai hàng người hân hoan chào đón, trong đó có người em gái thơ ngây, mà tôi trót thương yêu năm nào.

Đời lính như vậy, sao ta không buồn?

Xóm Cồn
Mùa Quốc Hận Năm thứ 32
Ngày 19-4-2007



Về trang chủ & Lên đầu trang

Google search

BannerFans.com

  © Free Blogger Templates Joy by Ourblogtemplates.com 2008

Back to TOP