Thuật Xữ Thế
>> July 16, 2009
"Kinh Hiền Nhân" với những lời dạy rất thiết thực trong cuộc sống. Kính ghi lại tóm lược nơi đây những điều cần thiết cho cuộc sống của chúng ta. Cầu chúc mọi người luôn được những giây phút an lành và hạnh phúc.
Hiền Nhân Và Thuật Xữ Thế
Kết bạn mà không bền chắc thì không nên thân.
Thân mà không có chừng mực, thân lâu sẽ sanh khinh lờn.
Ví như múc nước giếng, múc sâu thì nổi cặn.
Gần người hiền được thêm trí huệ, ở với kẻ dốt càng thêm ngu si.
Thấy nhau thường thì hay khinh lờn, xa nhau quá thì thành thờ ơ.
Do đó, giao tiếp qua lại với người lành nên có chừng mực, thân mà có cung kính thì thân lâu càng có hậu.
Giao thiệp với kẻ bất lương, họ ăn ở không thực thà, lời ngon tiếng ngọt chẳng qua là để lợi dụng mình, dù cho có kết hợp, cũng không tin.
Vua lấy lễ độ tiếp tôi, tôi cung kính đáp lại. Nay vua đối đãi khinh dễ thì tôi phải lánh xa.
Thân yêu nhau rồi có sự giận ghét nhau, khi thương thì muốn nhờ cậy, lúc ghét thì chẳng muốn gần.
Lấy sự cung kính nhau để làm thân thiện, lấy sự răn dạy lẫn nhau để tránh xa điều ác. Mà nay có người chẳng phân biệt cái nào là ác, cái nào là thiện, ấy chẳng phải là đạo an thân.
Người không có lỗi với mình, thì mình không nên bày chuyện vu oan cho họ.
Người muốn xa ta thì ta không nên miễn cưỡng gần họ.
Sự thương đã xa lìa thì không nên nghĩ đến.
Trong thiên hạ có bốn điều tự hoại:
Một là cây có nhiều hoa trái nặng sẽ gãy nhánh.
Hai là rắn ngậm nọc độc, nọc độc sẽ trở lại hại nó.
Ba là kẻ làm tôi không hiền thì sẽ hại nước nhà.
Bốn là người làm việc bất thiện thì khi chết sẽ đọa vào địa ngục.
Vậy nên trong kinh dạy:
“Sự độc ác do tâm sinh ra và sẽ trở lại tự hại tâm mình cũng như sắt sinh ra sét, chất sét ấy trở lại tiêu hình của sắt"
Kết Bạn có bốn thứ:
Một là kết bạn như hoa.
Hai là kết bạn như cân.
Ba là kết bạn như núi.
Bốn là kết bạn như đất.
Sao gọi là kết bạn như hoa?
Khi bông hoa còn tươi tốt thì giắt trên đầu, khô héo rồi bỏ đi. Bạn loại này cũng thế; hễ thấy giàu sang thì xu phụ theo, thấy nghèo nàn lại làm lơ.
Sao gọi là kết bạn như cân?
Khi để vật nặng thì đầu gục xuống, vật nhẹ thì đầu vổng lên, có qua lại thì cung kính nhau, không qua lại thì khi dễ nhau.
Sao gọi là kết bạn như núi?
Hòn núi vàng loài chim thú tụ về, lông cánh được chói màu vàng rực. Kết bạn cũng thế khi sang thì sang với nhau, khi vui đồng vui.
Sao gọi là kết bạn như đất?
Tất cả mọi vật đều dựa đất mà sinh. Làm bạn để nuôi dưỡng ủng hộ, ân hậu không quên
Người có trí có bốn việc không nên tin:
Một là bạn tà ngụy.
Hai là bề tôi nịnh siểm.
Ba là vợ yêu nghiệt.
Bốn là con bất hiếu. Ấy là bốn cái không tin theo.
Vì thế, kinh dạy:
Bạn tà hại người, tôi nịnh hại triều, vợ yêu nghiệt phá nhà và con bất hiếu hại cả cha mẹ.
Mười trạng thái chứng tỏ cho biết là có sự yêu quý hậu trọng:
Một là xa nhau lâu không quên.
Hai là thấy nhau thì vui mừng.
Ba là có món ngon vật lạ san sẻ cho nhau.
Bốn là khi có lỡ lời, đừng chấp trách nhau.
Năm là nghe điều lành càng thêm vui vẻ.
Sáu là thấy việc dữ đem lời trung chính mà can gián.
Bảy là làm được những việc khó làm.
Tám là không đem chuyện riêng nói với người.
Chín là khi gặp việc bối rối phải giải quyết cho nhau.
Mười là đến lúc nghèo khổ không rời bỏ nhau.
Nên trong kinh có dạy:
“Bỏ dữ làm lành tu tập đúng như Pháp, đem lời trung chánh dạy dỗ, nghĩa hiệp, có đạo"
Tám việc biết là không ưa nhau:
Một là thấy nhau mặt đổi sắc.
Hai là không liếc ngó, không thẳng thắn.
Ba là lời nói không ôn hòa.
Bốn là nói phải cho là quấy.
Năm là nghe lời suy bại thì vui thích.
Sáu là nghe lời hưng thịnh thì không vui.
Bảy là hủy bỏ chê bai việc tốt đẹp của người.
Tám là tán thành việc ác của người.
Nên trong kinh dạy rằng:
“Lỡ đánh chết người, tội ấy còn có thể dung thứ; dùng tâm độc âm mưu để hại người, tâm niệm ấy không nên gần.”
Có mười sự chứng tỏ đó là người trí:
Một là biết kẻ hiền, người ngu
Hai là biết kẻ sang, người hèn
Ba là biết kẻ giàu, người nghèo
Bốn là biết việc nào khó việc nào dễ
Năm là biết việc nào đáng bỏ, việc nào nên làm
Sáu là biết nhiệm vụ của mình
Bảy là vào nước nào biết được phong tục nước ấy
Tám là biết được chỗ trở về
Chín là học rộng hiểu nhiều
Mười là biết được túc mạng.
Mười việc đó chứng tỏ người có trí.
Kinh dạy:
“Khi tai nạn gấp rút mới biết được lòng bạn, có đánh nhau mới biết kẻ yếu người mạnh, có luận nghị mới biết được người trí người ngu, lúc cơm thừa gạo kém mới biết người có lòng nhân
Tám điều kiện để được an ổn:
Một là được của cha mẹ để lại
Hai là có nghề nghiệp bảo đảm lấy sự sống của mình
Ba là học thức cao
Bốn là có bạn hiền
Năm là có người vợ trinh lương
Sáu là được người con hiếu thảo
Bảy là tôi tớ được hòa thuận
Tám là lìa xa việc ác
Tám cái thích:
Một là cùng làm việc với người hiền
Hai là được học với bậc thánh nhân
Ba là tánh thể nhân từ và ôn hòa
Bốn là sự nghiệp mỗi ngày mỗi hưng thịnh
Năm là diệt được tánh giận dữ
Sáu là biết phòng ngừa tai nạn
Bảy là biết nương gần đạo pháp
Tám là bạn bè không dối gạt nhau
Mười trường hợp khó có thể khuyên can:
Một là tham lam che mất lương tri
Hai là tham đắm sắc đẹp
Ba là ưa danh vọng địa vị
Bốn là kẻ ngang tàn bạo ngược
Năm là kẻ nhút nhát
Sáu là kẻ khờ khạo lừ đừ
Bảy là kẻ kiêu ngạo buông lung
Tám là người ưa đấu tranh
Chín là người chấp tập tục si mê
Mười là kẻ tiểu nhân.
Kinh chép:
“Nói pháp cho người ngu nghe cũng như nói với kẻ điếc, những ai khó hóa độ, thì không thể khuyên can."
Trong kinh có câu:
“Làm được hãy nên nói, làm không được thì đừng nói suông; lời hư ngụy không thành tín thì các bậc minh triết không thèm đoái đến"
Mười trường hợp mà mình không nên nói với người:
Một là kẻ ngạo mạn
Hai là kẻ ngu độn;
Ba là kẻ hay lo sợ
Bốn là kẻ ham vui chơi
Năm là kẻ hay e lệ
Sáu là kẻ câm ngọng
Bảy là kẻ cừu hận
Tám là kẻ đói lạnh
Chín là kẻ mắc nhiều việc
Mười là người đang tham thiền tịnh lự.
Mười triệu chứng sẽ hiện diện cho ta thấy một người phụ nữ không có tiết hạnh:
Một là đầu tóc rối, bới nghiêng qua một bên
Hai là mặt hay biến sắc và mồ hôi tự nhiên chảy
Ba là lớn tiếng nói cười
Bốn là hay liếc ngó, không đoan chính
Năm là trang sức lộng lẫy
Sáu là hay nhìn trộm qua kẽ vách
Bảy là ngồi không yên
Tám là hay dạo chơi trong xóm làng
Chín là hay đi dạo ngoài đồng vắng
Mười là hay giao thiệp với hạng dâm nữ
Năm tính tốt được người cung kính:
Một là nhu hòa nhẫn nhục
Hai là cung kính và có tín tâm
Ba là mau mắn và ít nói
Bốn là lời nói đi đôi với việc làm
Năm là đối với bạn càng lâu càng thân hậu.
Trong kinh có câu:
“Nếu biết thương lấy mình thì phải dè dặt giữ mình. Các bậc hiền sĩ có chíhướng cao thượng học hiểu chính đáng thì không bao giờ lầm lạc"
Năm cái đáng ghét:
Một là ác khẩu hại người
Hai là dèm pha siểm nịnh và thúc dục sự đấu tranh
Ba là rầy rà không thuận hòa
Bốn là ganh ghét và trù rủa
Năm là nói hai lưỡi gạt người
Mười kẻ mà mình không nên mời về nhà:
Một là thầy ác
Hai là bạn tà
Ba là kẻ hay khinh bỉ bậc thánh
Bốn là kẻ hay nói tráo trở
Năm là kẻ dâm ô
Sáu là người thèm rượu
Bảy là kẻ có tánh xấu
Tám là người không biết ân nghĩa
Chín là đàn bà con gái mất nết
Mười là kẻ tỳ thiếp ưa trang sức
Tám điều kiện để được an vui:
Một là vâng thờ kính thuận các sư trưởng
Hai là đem sự hiếu thuận dạy cho dân
Ba là khiêm nhường kẻ trên người dưới
Bốn là phải tập tánh nhân đức ôn hòa
Năm là đến cứu người trong cơn nguy cấp
Sáu là phải quên mình nghĩ đến người
Bảy là phải thu thuế, lấy lãi ít và phải biết tiết kiệm
Tám là bỏ hận thù xưa.
Trong kinh có câu;
“Chuyên tu cội đức, nghĩ trước rồi làm sau, cứu giúp người trong cơn nguy cấp và bần khổ, thì trọn đời được an vui.
Bậc trí giả có mười hai điều luôn phải nghĩ tới không bao giờ lãng quên:
Một là khi gà gáy sáng đã nghĩ tới tội lỗi mà lo việc phúc đức để đền bù lại
Hai là nhớ việc hầu hạ tôn thân
Ba là gặp việc gì phải suy nghĩ dự bị trước
Bốn là phải lo nghĩ lánh xa sự nguy hại
Năm là phải nghĩ trước mới nói sau để khỏi phải lạc lầm
Sáu là phải đến những kẻ lạc lầm mà đem lời trung chính dạy bảo nhắc nhở họ
Bảy là nghĩ đến những kẻ nghèo khổ để thương xót cấp hộ
Tám là phải lo làm việc bố thí nếu mình có của
Chín là phải nghĩ đến sự ăn uống cho có chừng mực
Mười là phải nhớ giữ sự công bình khi phân xử hoặc phân chia
Mười một là phải nhớ đem ân đức ban rải dân gian
Mười hai là phải thường nghĩ đến sự huấn luyện nếu mình là quân sĩ hay vua quan.
Đấy là mười hai điều mà người trí phải thường nghĩ đến.
Vậy nên trong kinh có câu:
“Làm việc gì phải lo dự bị trước, như vậy sự nghiệp sẽ mỗi ngày mỗi lớn, không khi nào thất bại
Bậc đại hiền có mười hạnh tốt:
Một là học rộng hiểu nhiều
Hai là không phạm giới luật trong kinh dạy
Ba là kính thờ Tam Bảo
Bốn là thọ pháp lành không quên
Năm là kềm chế được tham sân si
Sáu là tu được pháp bốn tâm bình đẳng
Bảy là ưa làm việc ân đức
Tám là không nhiễu hại chúng sinh
Chín là hay hóa độ được người bất nghĩa
Mười là không lầm lộn việc lànhviệc ác
Kẻ đại ác thường được biểu hiện qua mười lăm tội nặng:
Một là sát sanh
Hai là trộm cắp
Ba là quen thói dâm ô
Bốn là dối trá
Năm là nịnh hót
Sáu là chuốt ngót
Bảy là dèm pha
Tám là khinh bậc hiền sĩ
Chín là tham sự ô trược
Mười là buông lung
Mười một là say sưa
Mười hai là ganh ghét kẻ hiền
Mười ba là hủy báng đạo đức
Mười bốn là sát hại thánh nhân
Mười lăm là không kể tội lỗi.
Người đời có mười cái hổ thẹn:
Một là làm vua không hiểu chánh trị
Hai là tôi thần mà vô lễ
Ba là thọ ân không lo báo đáp
Bốn là có tội lỗi không chịu chừa bỏ
Năm là một vợ hai chồng hay một chồng hai vợ
Sáu là chưa cưới mà có thai
Bảy là tập hợp không thành
Tám là có binh khí mà không thể chiến đấu
Chín là kẻ bỏn sẻn không bố thí
Mười là tôi tớ mà chủ không sai khiến được
Mười hai điều khó:
Một là làm việc với người ngu
Hai là yếu đuối không chống lại được với sức mạnh
Ba là thù nhau mà ở chung một nhà
Bốn là học ít mà đứng ra nghị luận
Năm là nghèo hèn mà trả được nợ
Sáu là ra trận không có tướng sĩ
Bảy là thờ vua trọn đời
Tám là học đạo mà mất tín tâm
Chín là làm ác mà muốn quả báo đẹp
Mười là sinh ra đời được gặp Phật
Mười một là được nghe chánh pháp của Phật
Mười hai là làm theo được chánh pháp ấy mà thành tựu
Người có trí huệ, đại khái biết bốn mươi lăm việc
1. Là sửa sang nhà cửa.
2. Là gây không khí hòa hợp trong gia đình.
3. Là giao thân với chính họ.
4. Là tin ở bạn bè.
5. Là theo học với bậc minh sư.
6. Là làm việc gì quyết cho thành tựu.
7. Là tài trí cao rộng.
8. Là mọi hành vi đều hướng về việc lành.
9. Là giàu sang thì lo làm việc ân đức.
10. Là tạo tác và sửa sang đều phải thận trọng.
11. Là có của phải mở mang sự nghiệp.
12. Là không giao của cải cho con cái nếu chúng còn quá nhỏ.
13. Là kết bạn với người hiền.
14. Là không quá tin những ai vừa mới quen biết.
15. Là tiền của ở chỗ huyện quan phải đem về đừng để lâu.
16. Là mua bán đổi chác phải thật thà, không lường gạt.
17. Là dời ở nơi nào phải đến xem trước.
18. Là đến đâu phải biết đó giàu hay nghèo, quý hay tiện.
19. Là phải giao thiệp thân cận với người lành.
20. Là phải nương tựa vào một thế lực.
21. Là đừng tranh hơn kém với kẻ cường bạo.
22. Là xưa giàu mà nay suy thì có thể mong phục hưng cơ nghiệp.
23. Là nếu bần khổ thì đừng có cao vọng to tát.
24. Là có của quý không keo với người.
25. Là việc bí mật đừng nói cho vợ nghe.
26. Là làm vua phải kính người hiền đức.
27. Là phải ăn ở có hậu, nhất là bậc trung chính.
28. Nếu là thanh liêm, có thể dùng trị nước, hay có thể đứng ra trị nước.
29. Là gặp việc phải lo lập công.
30. Là trong công cuộc giáo hóa, lấy sự hiếu thuận làm căn bản.
31. Là phép của ông thầy là quý sự ôn hòa, như thế học trò đủ cung kính.
32. Là thầy có nhiều học trò, phải dạy chúng làm việc trung nghĩa.
33. Là làm thuốc phải hiệu nghiệm, nghề còn vụng chớ đem ra thi thố.
34. Là đau ốm phải nghe lời thầy thuốc.
35. Là ăn uống phải giữ cho có độ lượng.
36. Là có của ngon vật lạ chia sẻ cho nhau, đừng tiếc.
37. Là cho ai, hoặc cho ai mượn gì, phải tự tay mình trao cho họ.
38. Là làm chứng cớ cho người chính.
39. Là đừng vu oan cho kẻ vô tội.
40. Là khuyên can sự oán giận và làm cho sự thuận thảo trở về giữa hai người.
41. Là nhẫn nại và xa lánh việc ác.
42. Là đừng phân biệt giàu nghèo mà ở với người.
43. Là lấy sự thuận hòa làm quý.
44. Là theo đạo phải giữ giới.
45. Là lấy sự trong sạch làm quý hơn tất cả.
Những điều giúp nhận diện người trí:
- Chỗ vấn đáp người trí bao giờ cũng khác xa kẻ tầm thường.
Không lời nói nào của họ mà không phải là lời nói lành. Bậc thầy bao giờ cũng chính đáng. Và những đức tánh này chứng tỏ rằng kẻ ấy là bậc trí giả: Nhân từ mềm mỏng cẩn thận chắc thật, ôn hòa, nhã nhặn, lời nói hoạt bát và hay hâm mộ các việc lành.
- Kính mà đừng khinh, nghe lời dạy phải làm theo, vì chỗ hiểu biết của người trí rất đúng, bao giờ họ cũng có thể theo chánh đạo và không có tâm tham cầu, lại có thể suy xét rõ được việc quá khứ, hiện tại và tương lai. Tầm mắt của bậc trí giả rất rộng, họ thấy rõ muôn vật trong không gian và thời gian đều chỉ là biến hiện, muôn pháp đều quay về nơi nhất điểm không tịch bản nhiên
- Kẻ trí thì thấy rõ ràng đời là một sự biến đổi tang thương; trẻ trung rồi sẽ già nua; cường tráng rồi sẽ suy nhược; có sống thì sẽ có chết; giàu sang như mây nổi, đều là vô thường cả. Cho nên lúc an ổn phải nghĩ đến khi nguy ngập, khi hưng thịnh thì nghĩ đến lúc vô thường, người lành thì kính mến, người ác thì phải lánh xa. Nếu có giận hờn ai thì nên trừ bỏ, đừng vì thế mà gây ác hại người. Nhu hòa mà khó xâm phạm, yếu đuối mà khó thắng. Người trí như vậy đó.
- Người trí theo pháp thánh hiền, thường làm việc nhân từ và ưa dạy dỗ kẻ ngu muội trở nên sáng suốt như họ. Người trị nước thì nên ban bố ân huệ cho kẻ biết làm lành, kẻ tu hành thì lo dẫn dắt mọi người về nơi chánh đạo; quốc gia có hoạn nạn thì cùng nhau đàm luận lo toan; tới lui phải biết thời mới khỏi bị sự nghi ngờ oán trách. Tuy có ơn rộng đức lớn với người, nhưng đừng cầu mong người báo đáp, thờ người trí thì được phước và trọn đời không mắc phải tai nạn. Bệ hạ đừng có nghi ngờ. Pháp chánh trị không nên trái với lý đạo, dạy dân làm lành thì càng ngày càng thêm lợi ích cho đất nước.